Ý Tổ sư trên đầu ngọn cỏ

Ý TỔ SƯ TRÊN ĐẦU NGỌN CỎ (P.2)

Chuyện cái thất - Phúc đức và chứng ngộ - Thiền và Duy thức - Ông Địa - Trách ai?

03/04/2017


CHUYỆN CÁI THẤT

Thiên hạ không tu, cũng có đất quanh Thường Chiếu. Có đất đã xây thất. Có đất để đó không xây. Tôi thấy thiên hạ có đất, dù có thất hay không, thảy đều rất thích. Cái thích ấy giờ mới toại nguyện. Đất rồi cũng có. Không lớn cũng không nhỏ. Đương nhiên phải xây liền một cái thất.

Thất vừa tính xây, ngay đúng tháng 7. Thiên hạ bàn vô “Tháng 7 xây nhà cô hồn quậy phá. Tính kiểu chi đó?” Nghe cũng động tâm. Nhưng ngẫm cho cùng, nếu qua tháng 7, vật giá leo thang kiểu này, nhất định nhà còn … nửa cái. Coi ra đáng sợ hơn cả cô hồn. Thôi thì khởi công ngay rằm tháng 7 cho xong. Tiền yên mà tâm cũng yên. Cô hồn kệ nó.

Thất vừa xây xong, Ni viếng vội qua. Nhìn quanh nhìn quất, ngẫm tới ngẫm lui, Ni phán:

- Cái cửa nhỏ quá!

- Dạ thưa, đồ cũ tận dụng.

- Làm sao khiên cái hòm ra?

Trời đất! Nhà mới xây xong, chưa ở đã tính chuyện chết.

- Dạ đâu đã ở mà tính khiên ra?

Như vừa ngộ ra điều gì, Ni cười như hoa:

- À không. Sư phụ đã làm cái nhà phúng điếu. Có gì để ở ngoài đó, không cần vô đây.

Mô Phật! Xin bái thiền ni.

Hôm nay vừa xuống tới nơi, nhận được tin mới:

- Dạ thưa, Sư cô LB có cho bó nhan.

- Để ăn tân gia?

- Chắc vậy.

Coi như gần đủ. Xoay qua, thấy nhỏ cầm cái máy ảnh canh tới canh lui, mới nhớ còn thiếu tấm hình. Chụp đây một tấm, có gì còn có để … thờ.

Vậy là đủ bộ. Có quà tân gia.


PHÚC ĐỨC VÀ CHỨNG NGỘ


Thầy tu rồi mà sao cực quá! Tôi thưởng thức lời nói đó như một làn gió thoảng. Vô tư không dấu vết. Chung quanh chỉ núi với núi, không cực sao được. Vậy mà mấy chục năm sau, ý tưởng đó lại đến với tôi. Tu rồi mình còn cực hơn. Tu là gieo thiện nhân, đáng lẽ mình phải sướng. Tu là chuyển nghiệp cũ, đáng lẽ mọi việc phải hanh thông. Nhưng công việc hình như thêm nhiều. Vẫn có nhiều chuyện để giải quyết. Bởi ngoài việc đời, giờ còn việc đạo. Ý nghĩ đó không chỉ dừng lại ở bản thân, mà bắt đầu soi chiếu thêm ra ngoài...

Hắn tu, sao lại cực? Hắn tu, sao quanh hắn toàn chuyện rối ren? Hắn tu sao cực, hắn tu sao rối ren, là ám chỉ việc tu của hắn có vấn đề. Mình tu sao cực, mình tu sao ren rối, là ám chỉ nhân quả hình như không chính xác. Cứ vậy mà tâm càng rộn, việc càng nhiều. Chuyện mình, chuyện người theo đó cứ xoay quanh.

Xuất hiện ý tưởng đó, chỉ vì tu mà dính mắc vào phước hữu vi. Tu, nhưng chưa hiểu hết ý nghĩa của việc tu hành. Tu, đúng là chuyển nghiệp nhưng cần nhớ các việc sau :

1. Nhân quả không phải chỉ xảy ra trong tức khắc mà cả ba đời. Gieo nhân, ĐỦ DUYÊN mới có quả. Có nhân, CHƯA ĐỦ DUYÊN, quả cũng không thành. Nhân quá khứ quá xấu, quả hiện đời nếu chuyển cũng chỉ bớt xấu. Thành tu rồi mà cảnh hiện đời chưa vừa lòng là chuyện bình thường.

2. Cái gọi là phước và vô phước chỉ là những hình thức tương đối. Thứ thiên hạ gọi là phước, với mình chưa hẳn đã tốt. Thứ không phải phước, với mình biết đâu là cơ duyên tu hành? Vì thế, không nên CHẤP nhất trên những hình tướng bên ngoài, rồi soi rọi từ mình ra đến thiên hạ.

3. Tu tuy chuyển nghiệp, nhưng nếu là định nghiệp, thì cảnh không thể chuyển, chỉ có thể chuyển ngay tâm. Muốn chuyển ở tâm thì tâm phải bất động với ngoại cảnh. Tâm không, thì sự dù có cũng thành không. Bởi tâm tịnh thì cõi giới tịnh.

Cho nên, đến với thiền, trong việc tu hành mình cần có ý thức : Tu không phải để nhàn thân, không phải để mọi thứ chung quanh diễn biến vừa lòng, mà để TRỊ CÁI BỆNH CHẤP THỦ THÂM CĂN CỐ ĐẾ của người tu. Không chấp thì tâm đương nhiên bất động với ngoại cảnh. Sướng hay khổ không làm mình bận lòng. Cảnh đến, dù vừa lòng hay chưa vừa lòng cũng không làm mình thối tâm tu hành. Thân rồi sẽ nhàn, tâm rồi sẽ yên, không phải chỉ do cảnh bên ngoài đưa đến, mà do chính trí tuệ và lòng từ của mình hiển phát.

Hành trạng của chư vị thiền sư, không phải vị nào cũng có một hoàn cảnh tuyệt hảo hay một thân tướng tuyệt mỹ. Đại Đăng, chân đau gối nhức quanh năm. Lai Toản, thân ngủ cây đậu, đầu kê núi đá. Thiêu Thủy, hành khất tham thiền, bán giày cỏ lấy tiền nuôi thân. Bạch Ẩn, chịu tiếng oan, xin sữa về nuôi trẻ. Không phải chỉ có chư vị thiền sư mà ngay cả Lục Tổ, nhận y bát xong, vẫn còn lưu lạc tỵ nạn cùng đám thợ săn mười mấy năm trời. Rõ ràng, phước hữu vi chưa hẳn là thứ biểu trưng cho công phu tu hành trong hiện đời của người tu. Không phải mà mình cứ chạy theo, vui mừng dính mắc, lấy đó làm công đức tu hành, thì tâm bồ đề dễ thối, tâm thỏa mãn dễ sinh. Tâm thỏa mãn đã sinh thì bệnh chấp trụ liền kề. Phước có khi thành họa.

Thiền sư Vân Cư, cất riêng một am nhỏ nơi chỗ Động Sơn tu hành. Có đến mười ngày không thấy Vân Cư đến dùng cơm, Động Sơn hỏi : Những ngày qua, sao không thấy ông đến trai đường dùng cơm?

Vân Cư thưa : Mỗi ngày đều có thiên thần đem cơm đến cúng dường.

Động Sơn nghe xong liền nói : Ta bảo ông là kẻ vẫn còn tri giải. Ông rảnh, chiều lại.

Chiều Vân Cư đến. Động Sơn lớn tiếng gọi :

- Am chủ!

Vân Cư cung kính :

- Dạ!

Động Sơn hỏi :

- Không nghĩ thiện không nghĩ ác là cái gì?

Vân Cư trở về am ngồi lặng lẽ, thiên thần tìm mãi không thấy, trải qua ba ngày như thế mới thôi cúng dường.

Tu hành chân chính, đương nhiên phải có cái quả tốt đẹp. Nên lỗi, không phải vì được thiên thần cúng dường. Lỗi, không vì một chút thọ nhận cúng dường. Lỗi, vì phước hữu vi chưa phải là chỗ mà kẻ tu Phật an trụ. Tâm chưa đủ không, thiên thần mới thấy để mà cúng dường. Vì thế, Động Sơn đã quát “Ngươi là kẻ vẫn còn tri giải”.

Cho nên, với người tu thiền, có được quả phước hiện đời, không bằng thâm chứng được tánh phước đức. Phải nhận cho được thực tánh của mình cùng với chúng sanh đồng một cội nguồn không khác.

Đến với thiền, chỉ để cúng dường hộ Tăng hay nghiên cứu cho vui thì không có gì để bàn. Song đã phát tâm đi trên con đường thượng thừa, thì mình cũng cần suy nghiệm những gì Động Sơn đã nói. Được hay chưa, đều nên lấy đó làm chuẩn phải đến của mình, không kiếp này thì kiếp sau, không kiếp sau thì kiếp sau nữa. Nhờ cái chuẩn đề ra đó, mình mới không thối tâm vì hoàn cảnh bất toàn, cũng không có tâm an trụ vì hoàn cảnh quá toàn. Tu mà ngày càng rối ren bận lòng, thì việc tu hành cũng cần coi lại. Phải quẳng bớt những gì cần quẳng. Thứ gì không có không chết, có chỉ thêm nhọc thân hành tâm, thì cố gắng bỏ. Thứ gì không có, lại thiếu phương tiện vực đạo thì phải tạm dùng. Dùng mà không dính. Đó chính là tu.


THIỀN VÀ DUY THỨC


Nhìn con bé nhấc bổng con mèo mới thấy dễ thương. Tình cảm trên tay, thương yêu trong mắt. Nhẹ nhàng, nâng niu ... Song không phải khi nào nó cũng dễ thương như vậy. Cái mặt bạnh ra khi không vừa lòng mới thật đáng ghét. Một mụ phù thủy không kém không hơn. Tình cảm của mình theo đó như nước thủy triều, khi lên, khi xuống, khi ghét, khi thương. Ù ơ vậy đó, nên Tổ Long Thọ mới rằng:

Mắt tai và mũi lưỡi
Thân ý là sáu tình
Mắt v.v... sáu tình
Theo sắc là sáu trần

MẮT vốn không tình, chỉ vì theo SẮC TRẦN mà có thương ghét. TAI cũng không tình, chỉ duyên theo THANH TRẦN bên ngoài mà hiện buồn vui. Với Duy thức, khi mắt thấy sắc, không phải chỉ có mắt và sắc, mà là duyên hội của rất nhiều thứ. Nói lược có ba :

1/Căn.

2/Trần.

3/Thức.

Nói đủ đến mười :

1/Bản thức.

2/Chủng tử nhãn thức.

3/Mạt na.

4/Ý thức.

5/Nhãn thức.

6/Nhãn căn không hoại.

7/Tác ý muốn thấy.

8/Có cảnh làm sở duyên để duyên.

9/Khoảng giữa không chướng ngại. (Với Duy thức học, là duyên “ánh sáng”)

10/Trong vùng có thể thấy.

(Lời của Tổ Hiền Thủ trong Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Ký)

Trong cái duyên là NGHIỆP THỨC CON NGƯỜI, phải đủ 10 duyên, mình mới thấy được cảnh giới trước mắt. Chỉ cần thiếu một, mình không thể thấy con bé nâng niu con mèo.

Khi mắt thấy sắc, việc của nhãn thức chỉ là liễu biệt cảnh của riêng nó. Cảnh hiện thế nào, nhãn thức nhận biết đúng như thế ấy, như máy ghi hình không thêm không bớt. Khi nhãn thức sanh, ý thức sanh cùng. Ngay sát na đầu, ý thức cảm nhận hình tượng sự vật hiện lượng như chính nhãn thức. Nhưng qua sát na thứ hai, tất cả đều bị ý thức phân biệt chi phối. Do sát na đầu qua đi quá mau, nên mình không thể nhận biết. Chỉ lưu lại phần ý thức phân biệt, huân tập qua bao đời kiếp, rồi cho đó là tâm mình. Thấy, nghe, hiểu, biết đều bị quan niệm định kiến chi phối. Cho nên, cảnh này mới làm mình vui, lời kia mới khiến mình buồn. Cái này sao thấy quá lớn, lời kia sao không văn hoa v.v… 6 căn biến thành 6 tình, đánh mất cái khoảng ban đầu quí báu.

THIỀN, là sống với khoảng ban đầu quí báu đó. Là khoảng pháp được nhận biết đúng như chính nó, không bị định kiến của ta chi phối. Đó là cửa vào thẳng tắt chư vị thiền sư muốn dạy cho các thiền sinh.  

Cư sĩ Hoàng Đình Kiên tự Lỗ Trực, theo thiền sư Hối Đường xin chỉ cho chỗ thẳng tắt. Hối Đường bảo :

- Như Khổng Tử nói “Này các trò, cho ta là giấu diếm ư? Ta không có gì để giấu diếm”.

Lỗ Trực suy nghĩ.

Thấy vậy, Hối Đường nói :

- Không đúng, không đúng.

Lỗ Trực càng thêm u tối.

Một lần, theo hầu Hối Đường dạo núi, hoa quế đang rụng đầy, Hối Đường hỏi :

- Ông có nghe mùi thơm hoa quế chăng?

Lỗ Trực gật đầu.

Hối Đường bảo :

- Ta không giấu gì ông.

Lỗ Trực chợt tỉnh, liền lễ bái :

- Hòa thượng đúng là tâm lão bà tha thiết.

Hối Đường cười :

- Chỉ cần ông về đến nhà.

Ngay cái chỗ nhận biết được mùi thơm của hoa quế, là cửa vào của người tu thiền. Song mình không nhận được cửa vào, vì còn bận chạy theo mùi thơm của hoa quế, còn bận dõi mắt thương ghét với những được, mất, hơn, thua trong hiện tại. Ngay đó mà không về. Rong ruỗi buồn vui cho giòng đời thêm bạt, đường về thêm xa. Nên mới bình rằng:

Chẳng từng dấu, chẳng từng dấu

Đầy đường hoa quế ngát hương thơm

Hỏi ai chưa ngộ tìm đâu nữa
Nhà Tổ xưa nay cửa vẫn không
Ôi!
Ai đã từng nghe hoa quế thơm?
Thế ấy, chớ lầm!

(Ngũ đăng hội nguyên)



ÔNG ĐỊA

Ngày chưa đến chùa, nói chính xác là chưa đến thiền viện. Cái khoảng Đậu Hũ còn lang thang ngoài chợ đời phố thị, bầu bạn với đủ thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, không thiếu món nào, thì bàn thờ có rất nhiều tượng để thờ. Đức Di Đà ở giữa. Quan Âm, Thế Chí hai bên. Trái, một cái hình Ấn độ cởi trâu. Phải, hình mẫu mẹ ngồi chiễm chệ. Phòng khách có Ông Địa nghênh tiếp tiền bạc. Bếp đã có ông Táo coi hộ. Không cho tiền lẻn ngã sau.

Nói chung, bầu bạn với quá nhiều thứ, nên tâm không định, thấy chi cũng sợ. Mưa, Đậu Hũ sợ cây rơi trúng đầu, chết. Gió, Đậu Hũ sợ đổ cột điện đè lên người, tiêu. Phải nói, có quá nhiều thứ để sợ. Thành đến chỗ nào, thấy có thứ gì có thể bảo vệ được mình, Đậu Hũ liền thỉnh về thờ cùng Phật. Một người bảo vệ sao bằng năm người?

Thờ nhiều nhưng buồn hay vui, có tiền hay không, Đậu Hũ chỉ nói với mình ông địa. Bởi bàn thờ ông có một bình xăm và cuốn sách bói. Có thể lắc xăm xin quẻ dễ dàng khi cần. Nhưng đó chỉ mới một phần. Cái chính là ông không như đức Phật, chỉ mới là thánh là thần gì đó, ông sẽ thông cảm với việc Đậu Hũ đang cần. Ông lại “cai quản” tiền bạc, hy vọng ông cho Đậu Hũ một ít, đỡ tủi.

Đến thiền viện rồi, bỗng nghe Sư phụ tụng tới tụng lui “Cái bàn thờ Phật sao thờ nhiều thứ”. Nghe giảng mà bụng phập phồng. Thôi thì hạ hết cho xong. Nhưng tới bàn thờ ông Địa thì bỏ không đành. Đậu Hũ không sợ “không thực không vực được đạo”, mà vì chút tình lưu luyến bấy lâu. Ông dạy nhân duyên, nhân quả cho mình. Chừng đó mà không đành lòng. Thành giờ vẫn còn cái bàn ông Địa để ở trước cửa trên lầu. Không ai nói chuyện. Tu thiền, miệng cần như quạt mùa đông. Nói gì?

Làm ăn suôn sẻ, gia đình êm ấm, ít ai nhớ đến Phật, thánh. Chỉ khi có gì xui xẻo, chèo quơ mái lật, Phật thánh mới có phần. Ngày trước những ngày tiền bác thiếu hụt, Đậu Hũ lạy ông sói đầu. Mùng hai mười sáu, heo quay. Ngày thường, hết cho hút thuốc, lại cho ăn tỏi, trái cây. Nhưng tránh măng cụt, vì sợ tiền bạc thiếu hụt. Xam bu chê cũng không, vì sợ tiền chê không vô. Sầu riêng chẳng bao giờ cúng, vì sợ nỗi sầu không tiền đeo đẳng. Gai góc thế kia, tiền bạc rách hết. Thành gì thì gì, cúng kiến rất là kiêng kỵ. Kiêng hơn đàn bà non ngày non tháng. Sợ ông trúng thực, tiền mình không cánh mà bay. Ngẫm ra, chẳng tốt lành gì. Giờ không cầu cạnh nữa, bàn thờ cũng không, đừng nói cúng kiến.

Ông từng một lần bị cho ra đường cùng với thần tài, chỉ vì số đề xin hoài không trúng. Cậu ghét cậu quăng ra đường. Không ngờ ông có thần thông, phi ngang cây nhãn bám trụ tòn ten trên đó. Chỉ ông thần tài là tội. Hình hài chẳng còn một mảnh, nát vụn như tương, không một mảnh đất chôn thân. Ngày đó, Đậu Hũ mang ông vô nhà thờ lại chứ ai.

Vậy mà, lần nào lắc quẻ xin tiền, ông cũng trả lời “Chờ đủ nhân duyên”. Ngày ấy, hai chữ nhân duyên là gì Đậu Hũ không hiểu. Chỉ biết bốc phải quẻ ấy là coi như tiêu. Trắng tay vẫn hoàn trắng tay, không gì khả quan hơn được. Chỉ một điều lạ, mỗi lần cúng dường hay biếu tặng ai thứ gì, hoa ông nở rộ bàn thờ thấy tươi. Lão chồng vẫn nói “Vọng tưởng!”. Đời này có gì không phải là vọng, nói coi ! Vọng thì mới dệt cho thơ, mới tô cho mới cuộc đời. Miễn đừng tưởng vọng thành chân là được, chứ gì!

Giờ thì mới hiểu hai chữ nhân duyên ông nói ...

Đâu có gì lạ, nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Sống trong cuộc đời, không gì không phải nhân duyên. Mỗi cái quả hiện nay, không phải tự nhiên xuất hiện, đều do cái nhân đã gieo trong thời quá khứ. CHƯA ĐỦ NHÂN DUYÊN, nghĩa là Đậu Hũ chưa gieo cái nhân bố thí cúng dường v.v… làm sao Đậu Hũ đòi có phước lộc? CHƯA ĐỦ NHÂN DUYÊN, thì dù Đậu Hũ đã gieo nhân rồi, mà duyên chưa đủ, phước lộc cũng không. Cầu xin sao dược? Phật đã từng nói “Dù chư Như Lai xuất hiện ở đời hay không, các pháp vẫn như thế, vẫn quyết định tánh ấy, vẫn theo duyên như thế”. Phật còn nói vậy, Địa làm gì được. Đậu Hũ phải chờ cho đủ nhân duyên là lẽ tất nhiên.

Thôi thì, Đậu Hũ đã có nhân duyên với Địa. Để ông lại đó làm bạn tu hành. Phật có hoa thì Địa cũng có hoa. Phật có trái cây thì Địa cũng có trái cây. Nhưng Phật không heo quay thịt vịt, thì Địa cũng không được dùng heo quay thịt vịt. Thuốc rượu cũng không. Cái đó Phật tử tại gia còn không được dùng, huống là thần thánh tu hành. Chấm dứt là tốt.

Mới hay ở đời, đừng có dại dột mà nói sự thật cho chúng nó biết. Chúng biết mình không năng lực ban phát tài lộc cho chúng, chúng liền phủi tay. Nói chuyện cũng không, đừng nói cúng kiến. Chúng sanh là vậy. Bạc bẻo vô ngần! Biết mình chỉ là cái bóng không làm gì được, chúng liền quẳng ngay. Đừng nói là cung với kính hay những thứ khác. Chỗ này mới thấy thông cảm cho người. Có khi không phải người không muốn nói sự thật. Nhưng nói thẳng ra, chúng không chịu tin. Nếu tin được rồi, có khi mình … đói. Nên đành bấm bụng huyên thiên. Có vậy mới có cái ăn.

Ngẫm ra, Địa kia rất tội. Có sao nói vậy. Chỉ chút chừng đó không thương sao được. Đậu Hũ đâu thể hạ bệ đoạn tình đoạn nghĩa cho đi cái vù như mấy vị kia. Cho nên, hương hoa vẫn đủ, chỉ cùng chay lạt tu hành, mai sau Linh Sơn còn gặp ...


TRÁCH AI?


Mèo con là con mèo mẹ. Phải đến chục lứa, tôi mới có thể gần gũi chăm sóc con nó như lũ mèo nhà. Có vậy mới mong chích ngừa chấm dứt sinh sản. Nuôi mèo đem cho thì không còn chỗ để cho. Nuôi tiếp thì nuôi không nổi. Xua đi, thấy dạ không đành. Thành phải tính chuyện chấm dứt sinh sản. Không thì mèo khẩu cứ tăng. Mình đâu tính chuyện sản xuất cung cấp cho các tiệm ăn mà hứng với việc như vậy.

Mèo con giỏi hơn mèo mẹ rất nhiều, chỉ phải cái tội đêm đêm lại kêu, không ai ngủ được. Thành dù thương nó, mình cũng tìm đường cho nó ra riêng.

Gởi nó cho cô xong rồi, mình mừng hết lớn. Vậy là mình vẫn có thể chăm sóc chích thuốc cho nó. Xuống tới nhà cô, nó không kêu nữa. Nó nhảy tung tăng hưởng khí mát lành, tươi tắn vui vẻ. Nó không ăn cá ăn thịt, chỉ cần một chút thức ăn làm sẵn cho mèo, là nó đã no. Gặp cô, nó sa vào lòng không chút lạ lẫm. Mình cũng yên lòng. Vậy là những gì dự định coi như tạm xong.

Hai mươi ngày nữa, đến ngày mang nó chích ngừa. Nói là nói vậy, ngày đó không bao giờ tới. Bởi nó đã bị con Ki hàng xóm xơi tái …

Mới biết, không phải muốn lo là đã lo được. Mình dù có lòng để lo mà người không phước để hưởng, mọi thứ cũng không. Không phải chỉ với con mèo, thiên hạ chung quanh, ngay bản thân mình, cũng thấy như thế.

Cái khoảng thời gian đi tới đi lui ngoài chợ. Có rất nhiều chuyện để mình chiêm nghiệm. Bà chủ vừa nuôi người làm, dự định cho cô nhiều thứ. Nào sắm cái này, nào lo cái kia. Không phải chỉ việc nuôi mẹ, bà tính luôn việc giúp đỡ lũ con. Mỗi tuần, bà cho cô nghỉ một ngày thăm con ...

Chưa được ba ngày, cô nói nóng ruột nhất định đòi về. Bà cho ít quà và tiền rồi để cô về. Tôi lấy làm tiếc cho cô. Con người, có khi vì chút nhẫn lực không có, bỏ mất cơ hội ngàn vàng. Nhưng rồi một việc xảy ra để hiểu vì sao cô không hưởng được những gì bà chủ dự định : Người ta mang biếu cho bà một số bưởi quí. Bà đã dự định cúng dường Tăng Ni. Thấy cô thích thú, bà dành cho cô một trái. Nhưng hôm cô đi, cô mang đến hai. Đi thế, nên không một lời từ biệt.

Cho tới giờ này, cô vẫn không biết, chỉ vì tham một trái bưởi, cô đã bỏ mất số tiền tương đương đến 50 trái, con gái bà chủ muốn cho sáng đó. Bà chủ bận việc trên lầu, cứ nghĩ cô chào bà sẽ đưa tiền luôn thể. Không ngờ cô đi âm thầm. Người sống như vậy, làm sao đủ duyên ở gần bà chủ? Bà dù muốn lo, cũng không đủ duyên để hưởng. Ở được với bà mới là chuyện lạ.

Trong đời, chỉ vì không đủ nhẫn lực, không biết mình đã bỏ đi bao nhiêu cơ hội ngàn vàng như cô người làm của bà chủ kia? Không nhẫn được với miệng, không nhẫn được với thân, không nhẫn được với lòng tham, không nhẫn được với tính đố kỵ, kiêu mạn … mà mọi việc trở thành đáng tiếc. Đó là cái nhân để mình gặt phải cái quả bất toàn trong tương lai. Nhiều cái nhân bất thiện cho ra lắm cái quả bất toàn.

Suy cho cùng, cái chính vẫn là nhẫn không dược với những suy nghĩ của mình. Ý NGHIỆP. Không phải chỉ Ý mà còn đi kèm chữ NGHIỆP. Nghiệp, nói đủ là nghiệp tập. Chỉ cho thói quen mình đã huân tập trong bao đời kiếp. Chính vì chữ NGHIỆP, Ý mới có lực khiến mình chạy theo. Quên mất việc đó nói ra có lợi hay không. Quên làm như thế thiệt hại những gì. Thứ gì đụng đến cái TẬP hay TÔI của mình, lập tức mình mất nhẫn lực, mình liền phóng theo. Mình phát huy cái miệng, mình động đậy cái thân. Phật nói điên đảo là vậy.

Mới thấy 4 chữ BIẾT VỌNG KHÔNG THEO Hòa thượng Trúc Lâm đặt ra lợi hại vô cùng. Chỉ cần BIẾT được cái gì vừa hiện trong tâm, là mình đã có thời gian để thấy NÊN hay KHÔNG NÊN tiếp tục những việc đã nghĩ. Nhưng thường, thứ gì rơi trúng tập nghiệp của mình, mình đành bó tay. Cái BIẾT của mình bị LỰC CỦA NGHIỆP đè chết. Mình quên tất cả, chỉ theo nghiệp lực như thuyền phăng trên dòng thác, không chút nghỉ ngơi. Giả như có chút công phu, có ít trí tuệ, còn biết hồi tâm quay đầu, không đi quá xa. Nếu không trí tuệ, công phu cũng không, thì cứ theo nghiệp mà đi. Ta bà thế giới đâu hề từ chối những kẻ nhiệt tình với nó? Cái khổ, cái nghèo, hoạn nạn, tai ương, bất toàn theo đó mà hiện. Trách trời sao được? Muốn lo, lo cũng không xong.

Không biết con mèo chết đi, nó có trách tôi “Tại bà đem tôi xuống đây, thành tôi mới bị chó ngoặm mà chết tức tửi …”. Có trách cũng không phải lạ. Thói đời là thế, ít ai tự trách lấy mình, chỉ hay đổ thừa thiên hạ. Hắn đã đổ thừa thì mình đổ lại “Giá con đừng kêu, con biết làm chủ cái miệng của mình, đừng phiền thiên hạ, thì dù bưng cứt đổ đái chịu khó chịu khổ với con như trước, ta cũng chịu được. Đằng này con không biết nhẫn, đêm nào cũng gào thiên hạ ngất ngư, ta làm gì được bây giờ? Ta đem con xuống chỗ tốt, không ngờ phước con không đủ, đâu phải tại ta mà con trách ta?”. Nói thì nói vậy, nhưng ngẫm cho cùng, như chính mình đây, cái phước làm người đã có, học đạo cũng không phải vừa, nhưng nhẫn vẫn tồi … số một. Hở cái là hú, tập khí vẫn chưa thắng nổi, nói là con mèo? Thật tội! Tính ra, chỉ vì nuôi nó mà mình không đủ nhẫn lực dạy nó chữ nhẫn hầu tải bớt nghiệp của thân, cớ sự mới ra như vậy. Mới thấy tiền bối Nguyễn Du, phát biểu một câu ngẫm ra chí lý :

Đã mang lấy nghiệp vào thân

Cũng đừng trách lấy trời gần trời xa

Trách ai bây giờ? Phản quan tự kỷ bổn phận sự! Khắc dạ ghi tâm là tốt.