Phổ thông

BỐN HẠNG TĂNG

Chân Hiền Tâm - Viết cho Nguyệt San Giác Ngộ số 323 (PL2567) tháng 2. 2023

24/07/2023
 
Lúc đức Phật còn ở thành Vương-xá, Tỳ-kheo Thiện Tinh làm thị giả.
Đầu hôm, đức Phật thuyết pháp cho trời Đế Thích nghe. Theo lệ, thị giả không được đi nghỉ trước thầy. Vì Phật ngồi lâu nên Thiện Tinh sinh niệm ác, bạch Phật rằng:
- Xin thầy vào thiền thất mau, quỉ Bạt-câu-la đến kia kìa.
Phật bảo Thiện Tinh:
- Ông là kẻ ngu. Ông không biết đức Như Lai là bậc vô sở úy ư?
Trời Đế Thích thấy vậy, bạch Phật rằng:
- Hạng người như vậy mà cũng được vào trong Phật pháp ư?
Phật nói với Đế Thích:
- Cũng được vào trong Phật pháp. Họ cũng có Phật tánh, sẽ chứng được vô thượng Bồ-đề. Ta vì Thiện Tinh thuyết pháp, Thiện Tinh vẫn không có lòng tin.

Một lần Phật vào thành Thi-bà-phú-la khất thực, vô lượng chúng sinh muốn thấy dấu chân ngài. Thiện Tinh theo hầu phía sau, đi tới đâu chà tới đó, nhưng không chà mất được, lại khiến chúng sinh có quan niệm chẳng lành đối với mình.
Khi vào thành rồi, thấy trong nhà cất rượu có một Ni-kiền-tử ngồi chổm hổm, khom lưng ăn bã rượu, Thiện Tinh bạch với Phật:
- Nếu trong đời có bậc A-la-hán, thời người đó là hơn tất cả. Vì người đó tuyên bố không nhân không quả.
Đức Phật bảo Thiện Tinh:
- Ông là kẻ ngu. Ông không nghe bậc A-la-hán không uống rượu, không hại người, không khi dối, không trộm cắp, không dâm dật ư? Ni-kiền-tử đó giết hại cha mẹ, ăn bã rượu, sao lại gọi là A-la-hán? Ni-kiền-tử đó, sau khi chết nhất định đọa địa ngục A-tì, còn A-la-hán dứt hẳn ba đường ác, sao gọi hắn là A-la-hán?
Thiện Tinh liền nói:
- Tánh của tứ đại còn có thể đổi, quyết không có việc người đó đọa địa ngục A-tì.
Đức Phật nói:
- Ông là kẻ ngu. Ông không thường nghe chư Phật luôn nói lời thành thật ư?
Dù Phật nói thế nào Thiện Tinh tuyệt không có lòng tin.

Một lần, Phật ở tại thành Vương-xá. Trong thành có Ni-kiền-tử tên Khổ Đắc. Vị này thường tuyên bố rằng: “Phiền não của chúng sinh không nhân không duyên, giải thoát cũng không nhân không duyên”. Thiện Tinh bạch với Phật rằng:
- Nếu trong đời có bậc A-la-hán, thời Khổ Đắc là trên hết.
Phật nói:
- Ta nói ông là người ngu. Khổ Đắc không phải là A-la-hán, không hiểu được đạo A-la-hán.
Thiện Tinh nói:
- Sao A-la-hán lại đi tật đố với A-la-hán?
Phật nói:
- Ông là người ngu. Ta chẳng sinh tật đố với A-la-hán, chính là ông tự sinh quan niệm ác tà. Nếu ông nói Khổ Đắc là A-la-hán, thời ông nên nghe đây, bảy ngày sau Khổ Đắc sẽ bị trúng thực, đau bụng mà chết. Chết rồi, sinh trong loài quỉ ăn đồ ói mửa khạt nhổ của người. Bạn học của y sẽ mang thây y bỏ trong rừng Tha-ma.
Thiện Tinh liền đem lời này thuật lại với Khổ Đắc, rồi bảo Khổ Đắc rằng:
- Trưởng lão nên khéo tư duy, tìm phương tiện tu tập, sao cho lời Cù Đàm thành vọng ngữ.
Sau khi nghe Thiện Tinh nói, Khổ Đắc liền đoạn thực. Đến ngày thứ bảy, ăn đường đen uống nước lã đau bụng mà chết. Bạn của Khổ Đắc mang thi hài bỏ vào rừng Tha-ma. Khổ Đắc sinh làm quỉ đói, ăn đồ khạc nhổ ói mửa của người.
Thiện Tinh hay tin, liền đến rừng Tha-ma, thấy Khổ Đắc ngồi chổm hổm bên tử thi, liền hỏi:
- Đại đức chết rồi ư?
- Tôi đã chết.
- Vì sao chết?
- Đau bụng mà chết.
- Ai mang thây đại đức ra đây?
- Bạn học tôi.
- Mang thây bỏ chỗ nào?
- Ông là người ngu. Há không biết đây là rừng Tha-ma sao?
- Đại đức thọ thân gì?
- Thân quỉ ăn đồ ói mửa.
Trả lời rồi, bảo với Thiện Tinh:
- Ông nên nghe kỹ, lời của đức Như Lai là lời lành, lời chân, lời phải thời, lời đúng nghĩa, lời đúng pháp, sao ông không chịu tin lời chân thật của Như Lai. Nếu kẻ nào chẳng tin lời Như Lai, kẻ ấy sẽ thọ lấy thân như tôi.
Thiện Tinh trở về bạch với Phật:
- Khổ Đắc đã sinh lên cõi trời Đao Lợi.
- Này người ngu! A-la-hán là vô sinh, sao lại sinh cõi trời? Hiện nay y đang thọ thân quỉ đói.
- Thật là hiện nay y đang thọ thân quỉ đói.
- Lời của chư Phật là lời chân lời thật, không bao giờ sai.
- Dù như thế, tôi vẫn không có lòng tin.

Phật thường thuyết pháp cho Thiện Tinh mà Thiện Tinh tuyệt không có lòng tin thuận.
Dù Thiện Tinh đọc tụng mười hai bộ kinh, chứng được Tứ thiền, nhưng không hiểu nghĩa một bài kệ, một câu, nhẫn đến một chữ. Vì gần gũi bạn ác nên mất Tứ thiền, sinh kiến chấp tà ác mà nói rằng không Phật, không pháp, không có Niết-bàn. Ông cho rằng đức Phật có thể biết được tâm niệm cũng như các thứ khác chẳng qua là do giỏi tướng số mà thôi.
Phật bảo với ngài Ca Diếp rằng:
- Này Thiện nam tử! Thiện Tinh dù vào trong Phật pháp vô lượng công đức, nhưng trọn không có lợi ích, là vì phóng dật, vì gần bạn ác. Như người vào trong biển châu báu, nhưng do phóng dật mà không lấy được châu báu, lại bị bạn ác giết hại.
- Này Thiện nam tử! Nếu là người trước kia nghèo cùng giờ lại nghèo cùng thì lòng xót thương không nhiều. Nhưng với người trước kia giàu có, về sau lại suy sụp thì lòng xót thương với người này sâu đậm hơn. Thiện Tinh cũng vậy! Đã thọ trì đọc tụng mười hai bộ kinh, chứng đặng Tứ thiền, nhưng lại để thối thất rất đáng thương xót. Do phóng dật quá nhiều mà dứt mất căn lành… Từ nhiều năm nay, ta thường cùng Thiện Tinh gần gũi, mà Thiện Tinh tự sinh lòng tà ác, chẳng bỏ ác kiến.

Đó là chuyện đức Phật kể, được ghi lại trong kinh Đại bát Niết-bàn tập 2, phẩm Bồ-tát Ca Diếp [1].

Thường thiên hạ cãi cối cãi chày là do không thấy được sự thật, do nhầm lẫn. Nhưng trong trường hợp của Thiện Tinh thì mọi việc đã được Đức Phật báo trước, việc đã xảy ra, ngoại đạo còn tin lời Phật, khuyên ông nên tin lời Phật mà Thiện Tinh nhất định không tin. Một mực cứ theo vọng tưởng của mình. Thật là khó mà có thể hình dung được có một con người bất chấp cả sự thật như thế. Nhưng đã xuất hiện những con người như thế vào thời Đức Phật, lại là tăng nhân, lại là thị giả của Đức Phật. Huống là vào thời bây giờ, đã quá xa thời Chánh pháp.

Cho nên 
Nói Tam bảo thì Phật và Pháp đương nhiên là bảo, nhưng Tăng thì không hẳn khi nào cũng là bảo. Mọi thứ còn tuỳ duyên. Còn tuỳ thuộc vào hạnh trí của từng vị. Đức Phật dạy: "Nầy Ðại Ca Diếp! Ta chẳng nói cạo đầu, đắp y gọi là Sa-môn, mà ta nói người có công đức và nghi thức đầy đủ gọi là Sa-môn". Hoặc "Nếu tâm có tham sân si mà thân mặc ca-sa, trừ người chuyên tâm trì giới, còn những kẻ chẳng trì giới thì gọi là tiêu diệt ca-sa" [2] . Việc đó cho thấy không phải cứ khoác được màu áo Tăng nhân lên người là đã trở thành Tăng bảo.

Trong luận Đại trí độ tập I, cuốn 3, chương 5 có chia Tăng thành bốn hạng. Tăng biết xấu hổ, Tăng không biết xấu hổ, Tăng như dê câm và Tăng chân thật.

. Tăng biết xấu hổ là tăng trì giới đã thọ, không phá giới, tuy chưa đắc đạo, nhưng thân miệng thanh tịnh, có thể phân biệt tốt xấu, gọi là Tăng biết xấu hổ.

. Tăng không biết xấu hổ là tăng phá những  giới đã thọ, thân miệng không thanh tịnh, không việc ác nào không làm, gọi là Tăng không biết xấu hổ. Phật gọi các vị này là ác Tăng. Trong kinh Đại bửu tích, chương Pháp hội Bửu lương tự, phẩm Tỳ-kheo thứ hai, Phật dạy "Nầy Đại Ca Diếp! Có nhiều ác Tỳ-kheo phá hoại Phật pháp của ta chớ chẳng phải chín mươi lăm phái ngoại đạo phá hoại Phật pháp được. Ví như sư tử là chúa muông thú, khi nó chết tất cả hổ lang điểu thú không thể ăn thịt nó được. Trong thây sư tử tự sanh các thứ trùng tự ăn thịt nó. Cũng vậy, trong Phật pháp ta sản sinh ra các ác Tỳ-kheo như vậy, họ tham lợi dưỡng, vì lòng tham nên chẳng dứt ác pháp, chẳng tu thiện pháp, chẳng lìa vọng ngữ. Các Tỳ-kheo nầy có thể làm hư hoại Phật pháp của ta" [3].

. Tăng như dê câm là tăng tuy vẫn chịu gìn giữ giới đã thọ, không phá giới, nhưng độn căn không trí tuệ, không phân biệt được tốt xấu, không biết phạm khinh phạm trọng, không biết có tội không tội. Nếu có việc, hai người cùng cãi, thời không thể quyết đoán, im lặng không nói. Ví như dê trắng, khi bị người ta đem giết, cũng không thể la lên một tiếng, gọi là Tăng như dê câm.

. Tăng chân thật là tăng hoặc thuộc bậc hữu học, hoặc thuộc bậc vô học, trụ trong bốn quả, thường hành đạo tứ hướng, gọi là Tăng chân thật.

Trong luận còn chia Tăng nhân thành hai hạng là thật Thanh-văn TăngBồ-tát Tăng. Bồ-tát Tăng có thể bao gồm Tăng biết xấu hổTăng chân thật. Thanh-văn Tăng chỉ có một hạng là Tăng chân thật.

Trong đây, hai hạng Tăng là Tăng biết xấu hổTăng như dê câm có thể cùng chung làm một trăm lẻ một Kiết-ma, như Kiết-ma thuyết giới, thọ tuế, các việc đều được phép làm.
Theo đó thì thấy ngoại trừ Tăng không biết xấu hổ, còn lại Tăng như dê câm vẫn có thể tham gia các việc như Kiết-ma thuyết giới, thọ giới v.v...
Riêng Tăng không biết xấu hổ, trong kinh Đại bửu tích, phẩm Chiên-đà-la sa môn, Đức Phật dùng nhiều tên gọi để ẩn dụ về hạng Tăng mà Phật gọi là ác Tăng này.

1/ Sa-môn Chiên-đà-la: Không có từ tâm chỉ vì lợi dưỡng của mình mà thân cận thí chủ rồi sinh tâm kính trọng, không dạy Phật pháp và giới luật cho thí chủ. Sa-môn Chiên-đà-la nếu có y bát vật dụng đều là do phá giới, do thân khẩu ý nghiệp siểm khúc mà được. Như người chiên đà la không có tâm từ bi, thường ở trong gò mả tìm tử thi, thấy được tử thi thì lòng họ rất vui mừng. Họ bị mọi người xa lánh. Và luôn có tâm thẹn thùng khi lễ tháp Như Lai như khi Chiên-đà-la cầm bát xin ăn nơi người.

2/ Sa-môn bại hoại: Họ rời lìa pháp vị mà chọn lấy cặn phiền não, họ bỏ hương trì giới mà ngửi mùi hôi phiền não, họ đến chỗ nào đều chẳng thể tự lợi cũng chẳng thể lợi tha. Thân, khẩu, ý không thanh tịnh. Dù ở trong thiện pháp mà chẳng sinh thiện căn.

3/ Trắp Sa-môn: Ngoài thì hiện thành tựu tợ hạnh Sa-môn mà nội tâm nhiều thứ cấu uế, hành những nghiệp ác. Như cái trắp sơn son thiếp vàng mà trong đựng đồ hôi thối.

4/ Sa-môn Câu-lan-trà: Như hoa lan-trà có sắc mà hương thì hôi. Sa-môn này, ngoài hiện tợ hạnh Sa-môn mà thô bạo, ngạo mạn, tự cao, ác bất tịnh, phá giới, phá chánh kiến. Người trí chẳng thân cận lễ kính. Kẻ ngu thân cận tín thọ, lễ kính.

5/ Sa-môn cầu lợi: Lòng tham vô bờ, đối với tài lộc của người thường hy vọng muốn được, không biết đủ. Trong Phật pháp mà không hề có tâm ly dục. Đến đâu cũng vì lợi dưỡng, không vì thiện pháp. Thường bị chư Thiên Long Quỉ Thần thấy biết, quở mắng kẻ ác nầy chính là kẻ làm hoại diệt pháp của Phật Thích-ca Mâu-ni.

6/ Sa-môn cỏ dại: Ở trong đại chúng giống như người trì giới có đức hạnh, thí chủ thấy cho là Sa-môn mà thật chẳng phải Sa-môn. Chẳng phạm hạnh tự xưng là phạm hạnh. Từ trước đã bại hoại, rời trì giới cũng chẳng vào số Tăng chúng, trong Phật pháp không có trí huệ mạng, sẽ đọa ác đạo. Như trong ruộng lúa mọc cỏ dại, giống cây lúa khó phân biệt được, nông phu cho là lúa tốt, đến khi trổ bông mới biết chẳng phải là lúa.

7/ Sa-môn bồ sanh: Như cỏ lác mọc trong ruộng lúa, vì chẳng chín nên gọi là bồ sanh, vì không có hột bị gió thổi bay, không có sức cứng nặng, tợ lúa mà chẳng phải lúa. Cũng vậy, vì không có nội lực bị ma phong thổi bay, nên gọi là Sa-môn bồ sanh. Sa-môn này không người dạy bảo, không có đức lực, không sức huyết khí trì giới, lìa đa văn, tổn thất định lực, cũng không trí huệ, chẳng thể phá hoại giặc phiền não, bị hệ thuộc nơi ma, bị ma câu chìm trong tất cả phiền não. Như hột cỏ lác không dùng làm giống lúa được, không mọc mầm lúa được. Cũng vậy, ở trong Phật pháp Sa-môn bồ sanh không có chủng tử đạo, trong pháp hiền thánh không được giải thoát.

8/ Sa-môn hình tợ: Sa-môn này ưa tự nghiêm sức thân mình, đắp y tề chỉnh, nghi thức Sa-môn tất cả đều đủ, đến đi cúi ngước thường đúng nghi thức, nhưng lại thường bị tham sân si làm hại, cũng bị lợi dưỡng cung kính tán thán làm hại, cũng bị ngã mạn tăng thượng mạn tất cả phiền não làm hại, dầu được người quí trọng mà bản thân không trọng pháp, thường siêng trang nghiêm thân mà chỉ cầu ẩm thực chẳng cầu thắng pháp, chẳng lo sợ đời sau. Chỉ lo mập béo, dựa nơi lợi dưỡng chẳng phải dựa nơi pháp, nhiều thứ hệ phược, siêng tạo gia nghiệp thuận lòng người tại gia, cũng tùy theo sở thọ của họ, lúc khổ thọ khổ, lúc vui thọ vui, bị ghét thương làm hại, nơi pháp Sa-môn không có lòng muốn thực hành. Như có thợ khéo dùng vàng mạ lên đồng màu sắc tợ vàng mà giá trị chẳng đồng với vàng, lúc chà mài ra mới biết chẳng phải vàng, nên gọi là Sa-môn hình tợ.

9/ Sa-môn mất huyết khí: Như có nam tử hay nữ nhân bị phi nhân ăn mất huyết khí. Người nầy gầy yếu xanh xao vì bị mất huyết khí, các thứ thuốc men chú thuật và dao gậy chẳng chữa trị được, tất phải chết. Cũng vậy, Sa-môn này không biết dùng pháp Phật dạy để trị các bệnh tật của mình khiến đưa đến việc phạm các trọng giới. Không có huyết khí giới định huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, từ bi hỷ xả, không có huyết khí bố thí điều phục hộ thân khẩu ý nghiệp, không có huyết khí an trụ tứ thánh chủng, không có huyết khí nghi thức Sa-môn, không có huyết khí tịnh thân, khẩu, ý.
Đối với hạng Phật gọi là ác Tăng này, ngài khuyến khích chư vị nên xả giới hoàn tục.

Câu chuyện này như sau:
Sau khi đức Phật tuyên nói về các danh mục Sa-môn rồi, có năm trăm Tỳ-kheo xả giới hoàn tục. 

Các Tỳ-kheo khác thấy vậy quở rằng:
- Ở trong Phật pháp nếu chư Đại Đức bỏ mà hoàn tục là phi thiện, là phi pháp.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Các ông chớ nói như vậy. Vì sao, vì làm như vậy mới gọi là thuận pháp. Nếu Tỳ-kheo chẳng muốn thọ của tín thí mà thối lui hoàn tục thì gọi là thuận pháp. Các Tỳ-kheo kia vì tâm tín giải nhiều nên sinh lòng hối lỗi. Họ nghe lời dạy của ta rồi tự suy nghĩ "Chúng ta không thể hành bất tịnh hạnh mà thọ của tín thí, chúng ta phải sinh lòng hối lỗi thối lui mà hoàn tục".

Qua câu chuyện của Thiện Tinh, không biết ông được xếp vào hạng Tăng nào Tăng như dê câm hay Tăng không biết xấu hổ? Song Tăng không biết xấu hổ thì hiện nay có vụ Thiền am bên bờ vụ trụ là điển hình. Mượn màu áo Phật giáo để lừa gạt bá tánh trục lời, lại còn loạn luân v.v... Đương nhiên họ chỉ là một tổ chức riêng lẻ, tự xưng là Tăng, không có sự chấp nhận của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Vì sao xảy ra tình trạng có đến bốn hạng Tăng như thế trong Phật pháp?

Sao không chỉ ấn định hai hạng Tăng là Tăng chân thậtTăng biết xấu hổ mới được ở trong Tăng đoàn của Phật mà lại dung cả Tăng như dê câm, thậm chí là có luôn cả Tăng không biết xấu hổ khi việc phạm giới của họ chưa lộ ra ngoài? 

Vì ở thế gian, mọi thứ xuất hiện là do sự đối đãi. Vì bản chất các pháp là không, nên không có việc thuần thiện hay thuần ác ở thế gian này. Nếu thuần thiện thì tướng thiện ấy là tánh của các pháp. Nhưng tánh các pháp là không. Nên một khi thiện xuất hiện thì ác đã ẩn đâu đó và sẽ xuất hiện khi đủ duyên. Chỉ là thiện nhiều hay ác nhiều. Thời chánh pháp và tượng pháp thì thiện chiếm đa số. Thời mạt pháp thì thiện giảm đi. Các tướng đối đãi còn lại theo đó mà luận. Vì thế không thể đòi hỏi một điều gì tuyệt đối hay hoàn toàn ở thế gian này. Xuất hiện việc có nhiều hạng Tăng là chuyện bình thường.

Thứ hai, do tâm thức vô minh của chúng sinh. Không phải ai cũng quy hướng với Tăng biết xấu hổTăng chân thật. Họ cảm thấy thích thú và gần gũi hơn với các Tăng không biết xấu hổ. Như vụ Thiền am bên bờ vũ trụ. Một bộ phận khá đông Phật tử và không phải Phật tử vẫn gởi tiền ủng hộ các Tăng nhân giả mạo rất nhiều, dù ngay cả khi sự thật chưa được cơ quan chức năng phơi bày thì dưới con mắt của những người hiểu biết Phật pháp, ai cũng thấy rằng cách sống và những lời giảng dạy của họ là quá phi Phật pháp. Có trường hợp một số đông Phật tử còn giúp các Tăng nhân trốn hoặc che đậy các việc ác do Tăng nhân lỡ tạo ra. Cũng có khi chính Phật tử tạo điều kiện để Tăng nhân phạm giới v.v... Một khi tiền của tín thí còn được cung cấp nhiều thì các Tăng không biết xấu hổ vẫn hiện diện trên thế gian này. Hiện tượng này đã được Phật nhắc đến trong kinh Đại bửu tích tập III, phẩm Tỳ-lê-gia ba-la-mật như sau: "Ðời đương lai có nhiều chúng sinh thọ các tà kiến, đối với các Tỳ-kheo diễn nói chánh pháp, họ ít tín thọ, họ chẳng kính trọng thưa hỏi nghĩa kinh, họ chẳng gần gũi cúng dường, trở lại lăng nhục khinh miệt. Với các Tỳ-kheo giảng thuyết phi pháp thì nhiều người tín thọ. Các Tỳ-kheo này được thế lực lớn, có nhiều người cúng dường kính trọng thưa hỏi". 

Thứ ba, vì như Phật nói "Họ cũng có Phật tánh, sẽ chứng được vô thượng Bồ-đề". Văn Thù Sư Lợi từng ở địa ngục vô lượng kiếp rồi cũng thành Văn Thù Sư Lợi đó thôi. 

Thứ tư, do lòng từ bi và trắc ẩn của các bậc Tôn sư. Phật dù biết Thiện Tinh như vậy vẫn để Thiện Tinh bên mình. Sửa từng cái sai của Thiện Tinh dù hiện tại không có kết quả. Nhưng mọi thứ sẽ được lưu giữ trong tạng thức. Sẽ phát huy tác dụng khi đủ duyên. 

Khi thiền sư Bankei mở an cư kiết hạ, môn đồ khắp nước Nhật qui tụ về đông đảo. Trong một lần như thế, một đệ tử bị bắt gặp đang ăn cắp. Sự việc được trình lên Bankei với đòi hỏi kẻ phạm tội phải bị trục xuất, Bankei bỏ qua.

Ít lâu sau người đệ tử ấy lại bị bắt quả tang trong một trường hợp tương tự, và một lần nữa Bankei lại bỏ qua. Việc này làm những môn đồ khác bất bình, họ liền làm một thỉnh nguyện thư đòi đuổi tên ăn cắp, nếu không họ sẽ cùng nhau rời khỏi thiền viện. 

Sau khi xem xong thỉnh nguyện, Bankei triệu tất cả môn đồ lại nói: "Các vị là những huynh đệ sáng suốt. Các vị biết thế nào là đúng và thế nào là không đúng. Các vị có thể tìm nơi khác vừa ý để tu học, nhưng vị sư đệ này lại không biết đâu là điều đúng và sai. Ngoài ta ra, ai là người chịu nhận dạy bảo ông ấy. Ta sẽ giữ ông ấy lại đây cho dù các vị có bỏ đi". Một suối lệ đầm đìa rửa sạch mặt vị đệ tử ăn cắp. Từ đấy mọi tham vọng lấy cắp đều biến mất [4].

Tâm từ bi và lòng trắc ẩn của vị thầy đã tạo nên sự diệu kỳ trong việc thay đổi thói quen không tốt của vị học trò. Nếu không chấp nhận những con người như thế vào trong Phật giáo thì lấy đâu ra môi trường với ảnh hưởng từ trường của các bậc thánh để chuyển hoá họ, trong khi họ mới là những người cần giúp đỡ, cần chuyển hoá. Có thể kiếp này chưa thể khai mở tâm thức của họ. Nhưng tất cả những gì tốt đẹp trong hiện đời đều được lưu giữ. Một lúc nào đó đủ cơ duyên các chủng tử đó sẽ khai hoá và họ sẽ biết cái gì đúng, cái gì sai, cái gì nên làm, cái gì không nên làm v.v... 

Đẩy mạnh việc học hiểu tham cứu kinh luận

Để giải quyết phần nào tình trạng do thiếu hiểu biết mà sinh các việc bất thiện, các bậc Tôn sư khuyến khích Tăng nhân cũng như cư sĩ dù chưa có điều kiện tu hành thì cũng đẩy mạnh việc học tập và tham cứu kinh luận, không thể chỉ lấy việc tụng niệm mà không hiểu nghĩa làm thời như Thiện Tinh. Phải có học và hiểu thì mới có thể phân biệt được thiệc ác xấu tốt mà kinh đã dạy. Vì thế các bậc Tôn sư cũng đã bỏ bao công sức để dịch thuật các bộ kinh từ Phạn Hán sang Việt, để chúng sinh khi tụng niệm có thể hiểu được ít nhiều ý nghĩa của kinh luận. Song song đó là mở ra các trường Phật học, các khoá Phật học, có thi cử bằng cấp hẳn hoi. Vì có thi cử mới có sự kiểm tra bản thân học được đến đâu, đã lưu giữ được gì trong tạng thức, không phải nghe tai này qua tai kia rồi đi mất. 

Một lời nhắn gởi

Mong là các cậu học trò nhỏ của tôi, vẫn giữ vững tâm ban đầu khi xuất gia. Đó là "Trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sinh". Ngoài ra không vì thứ gì khác. Luôn có tâm học hỏi tham cứu kinh luận và hoàn thành tốt đẹp những công tác được giao. Chú ý học cách giữ tâm bình thản trong mọi hoàn cảnh. Chưa bình thản được thì chỉ cần ghi nhận rõ ràng trong việc này ta chưa được bình thản. Chỉ cần như thế để rút kinh nghiệm cho mọi việc được tốt hơn về sau.

Mọi thứ đều do thói quen. Lúc đầu mọi thứ đều khó nhưng rồi tập lần sẽ thành dễ. 

Hãy là Tăng biết xấu hổ và là Tăng chân thật. Muốn vậy thì phải học, phải có thiền tập, không chỉ trong khi toạ thiền mà ngay khi đang làm việc, đang tiếp duyên. Không nghĩ nhớ về những gì đã xảy ra dù tốt hay xấu. Không dự định suy nghĩ những gì chưa tới. Chỉ làm tốt việc hiện tại. Làm trong chánh niệm. 

Danh và lợi không đưa đến niềm vui cho những Tăng chân thật. Chỉ có xả thân vì người mới mang lại niềm vui thật sự cho mình và người. 
   

 
            
               

 
[1] HT Thích Trí Tịnh dịch.
[2] Kinh Đại bửu tích tập 7, phẩm Sa-môn thứ nhất. HT Thích Trí Tịnh dịch.
[3] HT Thích Trí Tịnh dịch.
[4] Một trăm lẻ một câu chuyện thiền. Trần Trúc Lâm dịch.