Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Ký Q6

CÔNG ĐỨC HOA TỤ BỒ–TÁT THẬP HẠNH - Phẩm 17

09/07/2017


HOA NGHIÊM KINH THÁM HUYỀN KÝ

Quyển 6

CÔNG ĐỨC HOA TỤ BỒ–TÁT THẬP HẠNH

Phẩm 17
(Xem tại đây)

Sa-môn Pháp Tạng thuyết

Chân Hiền Tâm Việt dịch

 

Cũng có 4 môn phân biệt như trên.[1]

I. GIẢI THÍCH ĐỀ TỰA

Thập độ lợi nghiêm sức thể, gọi là công đức. Có công ứng cảm trang nghiêm như hoa kết quả, các hạnh trang sức nhau như hoa tụ. Cũng giải thích : Đức là hạnh thể. Hoa là hạnh dụng. Tụ là hạnh tướng. Bồ-tát là người có các công đức đó, thuộc Hữu tài thích. Đây là tên khác của Công Đức Lâm. Tương tự như phẩm Kim Cang Tràng Hồi Hướng nói sau.

Thập hạnh là vị pháp, là y nơi số mà lập tên. Thập hạnh của Bồ-tát cũng là y nơi chủ mà nhận danh xưng. Nhân và pháp nêu rõ.      

II. DỤNG Ý

Trước, Tự phần đã biết thì nay Chánh tông cũng nên hiển. Lại, trước đại chúng đã tụ tập thì kế cần có chánh thuyết để trao, nên có phẩm này.

III. TÔNG THÚ

Tông thú có ba:

1/ Ứng vào Tam thừa ký vị pháp.

2/ Biệt hạnh pháp.

3/ Phổ Hiền vị pháp của Nhất thừa.

1/ Ứng vào Tam thừa ký vị pháp : Chư Thánh dạy tán thuyết nhiều môn, tóm thu lại thì có mười:

1/ Nhân độ vị trong Nhân quả nhị độ.

2/ Nhiếp thuộc Đệ nhị Tinh tấn hạnh tăng kỳ trong ba thứ địa tiền thuộc Bảy a-tăng-kỳ.

3/ Thành phá hư không khí tam muội hạnh trong Tứ hạnh thuộc địa tiền.

4/ Thành tựu lạc đức liễu nhân chủng trong Pháp thân tứ đức liễu nhân.

5/ Đệ tam thập hạnh nhân trong Phương tiện tứ nhân thuộc địa tiền. 

Các thứ trên đều theo Lương Nhiếp Luận v.v… mà nói.

6/ Đệ nhị Tư tuệ vị trong Lục tuệ.

7/ Hạnh nhẫn trong Lục nhẫn.

8/ Nhiếp thuộc Tánh chủng tánh trong Lục chủng tánh.

Các thứ trên đều theo kinh Bản Nghiệp v.v… mà nói.

9/ Nhiếp thuộc Hạnh phương tiện trì trong Tam trì. Đây là theo Du-già Địa Trì mà nói.

10/ Đệ tam phục trong Trừ tứ chướng của địa tiền. Trừ cái sợ khổ của Thanh văn liền được báo vương của Ngân Luân Vương là tam thiên hạ.

2/ Nói về Biệt hạnh pháp : Trong kinh Nhân Vương, Tánh chủng tánh vị thứ hai có 10 tâm : Quán thân, thọ, tâm, pháp, bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngã, tam thiện căn (là thí từ tuệ), tam ý chỉ (là quá khứ nhân nhẫn, hiện tại nhân quả nhẫn, vị lai quả nhẫn). Đã qua cái tưởng ngã nhân tri kiến chúng sinh v.v… Tưởng điên đảo của ngoại đạo cũng không thể phá hoại. Kinh Bản Nghiệp cũng đồng.

Lại, hạnh có hai thứ : 

. Thông, là Thập hạnh như Tín v.v…

. Biệt, là Thập độ.

Ở đây nói Biệt, chẳng phải Thông. Trong Biệt lại có hai : Một là nhân, hai là quả. Ở đây nói nhân ba-la-mật. Đây đều ứng vào giáo Tam thừa, y vào pháp mà hiển hạnh.

3/ Phổ Hiền vị pháp của Nhất thừa :  Ngay nơi Viên giáo mà nói hạnh Phổ Hiền. Trong Thập hạnh đều nhiếp hết hạnh của các vị sau trước, tất cả đều hết, cho nên mãn tế của vị này là đến vị rốt ráo. Như mãn hạnh thứ mười nói: «Nhập nhân Đà-la võng pháp giới tự tại, thành tựu Như Lai vô ngại giải thoát, là đại hùng sư tử hống trong loài người, là Pháp luân vương chuyển vô ngại pháp luân v.v…».  Giải thích: Đây là chỗ rốt ráo của Bồ-tát, chẳng phải Phật. Vì quả phần thì chẳng thể nói.        


IV. GIẢI THÍCH VĂN KINH


Trong phần Chánh thuyết này có hai phẩm :  Phẩm đầu này nói về sở hạnh của Bồ-tát. Phẩm sau nêu sở thành của Bồ-tát. Lại, phẩm đầu ứng vào vị, là hạnh thăng và giáng. Phẩm sau ứng vào thông tướng, là hạnh đầu và cuối. Phẩm đầu nói về vị. Phẩm sau nói về hạnh. Phẩm đầu là Tự phần. Phẩm sau là Thắng tiến.

Trong phẩm đầu này có 7 phần đồng với trước : 1/Tam muội phần. 2/Gia trì phần. 3/Khởi phần. 4/Bản phần. 5/Thuyết phần. 6/Chứng thành phần. 7/Kệ tụng phần. Vì sao như thế? Vì muốn nói y nơi chứng mà khởi thuyết nên trước là nhập định (Tam muội phần). Vì hiển pháp thù thắng nên Phật đồng gia trì. Thuyết thời sẽ đến nên từ định khởi. Lời chẳng hiển liền nên lược nêu Bản phần. Không phải lược đi năng cụ,[2] nên sau thuyết rộng (Thuyết phần). Hiển sở thuyết xứng khắp nên kết luận chứng cứu cánh (chứng thành phần). Để pháp được thuyết dễ thọ trì nên có phần kệ tụng.


I. TAM MUỘI PHẦN
: Vì sao nhập định? Có 6 ý đồng với giải thích của Thập trụ nói trên. Trong đó có ba :

1/ Nêu người nhập định : Vì hạnh thành công đức như rừng (lâm) mà thuyết mười, nên chẳng khác tên mà nhập.

2/ Muốn hiển không phải lực của mình : Vì chọn hóa về Phật nên nói nương thần lực.  

3/ Nói về cái định đã đắc được : Vì tiềm thần chứng khế nên nói nhập.

Bồ-tát, là hiển ‘nhân’ khác ‘pháp’, để phân biệt với Phật quả.

Thiện phục tam muội, là nêu năng hiển dị.

Thiện, có hai nghĩa : Xảo năng (khéo) và thuận lý.

Phục, có hai nghĩa : Chế phục và điều phục.

Trước, ứng vào chướng, thì xảo năng chế phục khiến chẳng còn khởi.  Sau, ứng vào hạnh, thì tu hạnh thuận với lý. Vì là hạnh điều phục nên nói thiện phục.

Tam muội, thì giải thích đồng với trước.       


II. GIA TRÌ PHẦN
: Có ba. Trước, nói về năng gia trì. Kế, giải thích sở gia trì. Sau, nói về tướng gia trì.

1. Năng gia trì : Có năm.

1/1 Chư Phật hiện thân :

Hỏi : Chư Phật này, là ở một xứ ngoài vạn Phật thế giới trần số thế giới có số lượng như thế hay là ở phân tán?

Đáp : Ở phân tán. Phân tán ra sao? Như ở phương đông, ngoài vạn Phật thế giới trần số thế giới có một Phật Công Đức Lâm, từ hướng đông này, qua vạn Phật thế giới trần số thế giới lại có một Phật Công Đức Lâm. Cứ vậy mà tại hướng đông, số chư Phật triển chuyển cho đến vạn Phật thế giới trần số. Số cũng đồng với trước. Như ở phương đông, chín phương còn lại cũng như vậy.

Được nhiều Phật gia trì thì tăng trưởng sự cung kính của đại chúng và tâm trọng pháp của người, cũng là hiển lực tụ của chư Phật đồng thuyết.         

1/2 Hiển Phật danh đồng : Có 4 ý  đồng với trước.

1/ Muốn khiến Công Đức Lâm tăng thêm dũng mãnh vui thích.
2/ Muốn hiển chư Phật đó đồng đắc pháp này.
3/ Muốn hiển trong vị này đầy đủ hai đức nhân và quả.

4/ Với môn này, năng gia trì là Phật cùng pháp nhĩ đều được tên Công Đức Lâm, vì là pháp lực.

1/3 Tán thán được định này : Ngươi mới có thể, là lời nói chỉ cho sự vượt hẳn và hiếm có, hiển nhập được cái định hiếm có. Vì sao như thế? Vì Công Đức Lâm lặng yên nhập định này. Đại chúng đã không biết chỗ nhập thế nào thì không có tâm khát ngưỡng, chẳng thể vì họ mà thuyết giảng, cho nên cần Phật tán thán để khơi sự ưa thích của đại chúng. 

1/4 Do gia trì được định : Chư Phật tha phương tự thuyết là hiển rõ ‘đã tạo sự gia trì khiến Bồ-tát ấy được định’.

1/5 Chư Phật tự giải thích lý do tạo ra sự gia trì : Đoạn “Cũng là nhờ … Bồ-tát”. Có 3 câu :

a/ Nhờ lực bản nguyện của Lô-xá-na, khiến ta có sự gia trì: Địa Luận giải thích: “Xá-na thời quá khứ từng thấy có một Phật Lô-xá-na gia trì cho một Bồ-tát thuyết pháp Thập hạnh, chư Phật (năng gia trì) đồng danh là Công Đức Lâm. Nhân đó liền phát nguyện: ‘Nguyện ta thành Phật cũng có các việc như thế’. Nay theo bản nguyện đó mà thành, nên có sự gia trì vậy”.  

b/ Cũng do thần lực của Lô-xá-na hiện tại tương cảm mà đồng gia trì, cho nên có sự gia trì.

c/ Do lực thiện căn của chư Bồ-tát ứng với pháp nghe và cảm với chư Phật mà đồng có sự gia trì. Trước, thuyết pháp Thập trụ thì nói do lực thiện căn của Pháp Tuệ. Đây, nói do lực thiện căn của chư Bồ-tát, là muốn hiển đây thù thắng hơn trước, nên nhiều. Lại, trước là hiển tự lợi tăng, đây là hiển lợi tha rộng. Văn kinh ngoắc ngéo lúc hiển lúc lược, nhưng lý thật là đều có.         

2. Sở gia trì : Đoạn “Cũng là muốn khiến … trì tất cả pháp”. Câu đầu là tổng. 9 câu là biệt.

Muốn khiến ngươi thuyết rộng pháp thậm thâm, là câu tổng, là muốn khiến người thuyết rộng các giai vị trước sau và các nhân hạnh của ‘Phổ Hiền Thập hạnh pháp giới’. Không gì đây không đến, cũng không gì đây không thu, nên nói thậm thâm.

Thậm thâm có 9 thứ :

1/ Dưỡng quả thâm : Vì trưởng dưởng nhân bản hữu khiến thành quả. Đây ứng vào tự trí.

2/ Chiếu tánh thâm : Vì chia chẻ tánh loại sai biệt của chúng sinh, cũng là biết tánh dị loại. Với Như Lai tạng tánh của chúng sinh thì khai thị giải thích nên nói phân biệt. Cũng biết một chúng sinh thì đủ tất cả pháp môn và tất cả chúng sinh, vì tánh dung thông mà phân biệt. Như văn kinh phần Đệ bát hạnh nói: “Không lìa một chúng sinh mà chấp nhiều chúng sinh. Không lìa nhiều chúng sinh mà chấp một chúng sinh. Chúng sinh giới chẳng tăng. Chúng sinh giới chẳng giảm”. Cho đến nói “Bồ-tát thâm hiểu chúng sinh giới và pháp giới không hai. Trong pháp không hai, pháp tánh chân thật không tăng không giảm không sinh không diệt”. Các thứ như vậy ứng vào sở tri.

3/ Trừ chướng thâm : Chướng ứng với phiền não. Ngại ứng với sở tri. Chủng hiện chánh tập thì không gì không hết, nên nói lìa tất cả chướng ngại. Nếu y vào Tam thừa thì trong đó lồng việc hàng phục nỗi sợ khổ của Thanh văn, là hắc chướng hiện hành. 

4/ Nhập pháp thâm : Chứng nhập chân lý, cảnh chẳng ngại tâm, nên nói vô ngại. Kệ sau nói: “Đều nhập các pháp giới, tùy thuận đến bờ kia, cứu cánh được tự tại, pháp nhật là sở hành”. Cũng là nhập pháp giới Đế võng, là cảnh giới tương tức, tương nhập, viên dung, tự tại, vô ngại. Văn kinh sau nói: “Nhập Nhân-đà-la võng, pháp giới tự tại thành, tựu Như Lai vô ngại, giải thoát chính là đây”.

5/ Phương tiện thiện xảo thâm : Thiện xảo, vì dùng một pháp nhiếp tất cả pháp. Thiện xảo, vì một hạnh một vị đều nhiếp tất cả, một thân đến tất cả, có không cả hai đều chẳng trệ. Nhiều môn thiện xảo như thế, nên nói thành tựu tất cả phương tiện. Văn kinh sau nói: “Cùng tận chư Phật phương tiện đại hải”.

6/ Thành quả thâm : Vì thành tựu quả chủng trí. Trước, trưởng dưỡng là y cứ vào đầu. Đây, thành tựu là ứng vào cuối, là Như lượng trí loại biệt mà biết.

7/ Lý trí thâm : Vì Như lý trí giác ngộ tất cả pháp đều đồng nhất tánh.

8/ Tri căn thâm : Vì khéo biết căn khí chúng sinh sai biệt, biết chưa thuần và thuần thục không đồng. cũng biết đồng một như tánh, cũng biết một căn là tất cả căn v.v… như ‘Các căn hải’ đã nói.         

9/ Nghe trì thâm : Vì thành tựu mười loại Đà-la-ni, như sẽ nói ở phần Đệ cửu hạnh. 

Đó là muời hạnh … , là câu kết, là nói rộng như vừa nói. 10 loại pháp thậm thâm gồm tổng và biệt nói đó là vị pháp gì? Đó là Thập hạnh của Bồ-tát.    

3. Tướng gia trì : Đoạn “Phải nương … ”, là ba nghiệp gia trì.

3/1 Khẩu gia trì : Nương thần lực của Phật mà thuyết rộng … , là bảo thuyết giảng.   

3/2 Ý gia trì :  Có hai: Trước là gia trì, sau là giải thích. Đây đều là đương thời có sự mà không thuyết. Kết tập, là như sự mà kết lại.

2a/ Phần gia trì : Có 10 câu : Câu đầu là tổng. 9 câu sau là biệt.

Hỏi : Vì sao ở đây cho pháp trước cho trí?

Đáp : Thứ được cho (sở cho) là một, nhưng hội trước là thành giải kiến lý tăng, nên gọi là trí. Đây, khuôn phép thành hạnh tăng, nên gọi là pháp.        

Pháp vô ngại, là câu tổng. Khởi thuyết tự tại gọi là không chướng ngại. Cho biện tài vô ngại để thuyết giảng không bị trệ ngại.

9 câu kế là biệt.

Pháp an trụ : Đối với pháp thì không nghi ‘tánh không khác duyên’, nên nói an trụ. Cho trí vô úy, là giúp khi thuyết giảng tâm an không sợ người phá.   

Pháp vô sư : Sự hiểu biết phát từ trong ra, gọi là vô sư. Cho đồng Phật trí là để ở khi thuyết giảng trước chúng thì đồng với vô sư của Phật. 

Pháp vô si : Pháp này phân minh nên nói vô si, vì không lẫn vô minh. Cũng để khi thuyết giảng không bị sở tri làm chướng ngại.

Pháp không tạp loạn : Vì thấy pháp thứ lớp nên nói không loạn. Cũng không lẫn (tạp) chương cú v.v… của thế gian và các thừa còn lại. 

Pháp thanh tịnh : Sở giải là chân lý nên nói thanh tịnh, cũng là vì trí thể không lỗi.   

Pháp vô lượng : Sở giải rộng và nhiều, nên nói vô lượng, cũng là vì xứng với pháp giới pháp môn.

Pháp tối thắng : Sở giải thâm thắng nên nói tối thắng, cũng là vì cho quả pháp tương ưng.

Pháp vô cấu : Để khi thuyết giảng chẳng kiêu mạn, chẳng xiểm khúc, chẳng giải đãi, chẳng tham nên nói vô cấu.

Trí bất thối : Sở đắc chẳng mất nên nói bất thối, là vì lời nói không thối thất, cũng không thối thất nơi lý, cũng không thối khuất.

2b/ Giải thích :

Vì sao? Vì nhờ lực của tam muội, là giải thích vì sao thiên về sự gia trì. Đều là thân gia trì, đồng với giải thích ở Thập trụ.   


III. KHỞI PHẦN
: Giải thích đồng với Khởi phần của Thập trụ.


IV. BẢN PHẦN
[3]: Có hai : Trước là hạnh thể, sau là hạnh tướng.

1. Hạnh thể :

Hạnh nghiệp của Bồ-tát không thể nghĩ bàn, là nêu thể hiển đức, là hạnh Phổ Hiền viên dung, đầy đủ công đức, siêu tình, nên nói không thể nghĩ bàn.

Hạnh không thể nghĩ bàn này có 10 thứ :

1/ Quảng đại : Vì tất cả thân ở khắp tất cả chỗ, biến khắp tất cả thời, niệm niệm đốn tu hạnh xứng pháp giới, nên nói hạnh này không thể nghĩ bàn.

2/ Thậm thâm : Hạnh quảng đại này là tư số,[4] đều không có tự tánh, đồng với chân như, nhưng tướng của hạnh đó thì rõ rệt chẳng mất, là hạnh từ tánh khởi, nên cũng không thể nghĩ bàn.

3/ Thù thắng : Vì vượt qua các thừa khác, vì chẳng phải là biểu đồ của các vị dưới, nên không thể nghĩ bàn.

4/ Nhiếp vị : Vì thuộc các vị địa tiền nhưng nhiếp tất cả các vị sau trước, nên không thể nghĩ bàn.

5/ Chứng lý : Vì hạnh này có thể chứng lý không thể nghĩ bàn, nên là không thể nghĩ bàn.

6/ Đoạn chướng : Vì hạnh này có thể đốn đoạn những chướng khó đoạn, nên không thể nghĩ bàn.

7/ Lợi tha : Vì hạnh này có thể trong một niệm lợi rộng tận cùng chúng sinh giới, nên không thể nghĩ bàn.         

8/ Viên dung : Vì một hạnh là tất cả hạnh, tất cả hạnh là một hạnh, khó định lượng nên không thể nghĩ bàn.

9/ Trùng thành : Vì sở tác như nhân Đà-la võng, trùng trùng vô tận, nên không thể nghĩ bàn.

10/ Thành quả : Vì thành tựu quả Phật không thể nghĩ bàn, nên cũng không thể nghĩ bàn.

Sở dĩ nói 10 dục là để hiển vô tận, như sở hành v.v… của Đại long ở kệ sau, là ứng vào viên giáo mà nói. Nếu ứng vào Tam thừa thì không thể theo đây mà giải thích. Vì đó còn có vị lậu hoặc.

Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, là hiển tướng không thể nghĩ bàn trước.

Pháp giới có 10 nghĩa, như sau sẽ nói. Đây chỉ nêu 2 môn để giải thích hạnh này. Vì hạnh bao la nên nói rộng, hạnh sâu xa nên nói lớn. Cái lớn rộng này đều xứng tánh mà thành, nên nói như pháp giới.

Hư không có 10 nghĩa, sẽ nói ở phần thân xứ hư không của Đệ bát địa. Đây chỉ nêu 2 nghĩa :

. Hạnh này có thể phá tướng, chứng nhập pháp tánh rốt ráo như hư không, nên nói rốt ráo như hư không.    

. Hạnh này có thể xuất sinh vô lượng ái quả, như y nơi không mà hiện sắc sắc không cùng, nên nói rốt ráo như hư không.

 Vì sao? Vì đại Bồ-tát … trong phần giải thích này, trước là hỏi, sau giải thích. Vì hạnh này là chỗ hành của ba đời chư Phật nên như thế.

Cũng có thể giải thích : Hạnh nghiệp nói trên, tương đương với quán tướng thiện quyết định. Không thể nghĩ bàn, tương đương với chân thật thiện. Pháp giới, tương đương với thắng thiện. Như hư không, tương đương với nhân thiện. Nêu ba đời…, tương đương với không khiếp nhược. Còn lại, đều đồng với giải thích ở hội trước.

2. Hạnh tướng

2/1 Nêu số hiển yếu nghĩa: Ba đời chư Phật đồng thuyết chung.

2/2 Liệt danh: Nghĩa của 10 hạnh lược thành 10 môn phân biệt : 1/Giải thích tên. 2/Thể tánh. 3/Kiến lập. 4/Chủng loại. 5/Tu tướng. 6/Định vị. 7/Hành tướng. 8/Thân sở y. 9/Chướng đã lìa. 10/Quả sở đắc.

a. Giải tch tên: Có hai :

. 10 thứ thí, giới v.v… là theo hạnh thể mà có tên.

. 10 thứ Hoan hỉ, Nhiêu ích v.v.. là ứng với hạnh dụng mà có tên.

Nay nói về những thứ trên. Trong đó, danh chung thì như phẩm đầu đã giải thích, còn biệt danh thì:

1/ Bố thí, khiến mình vui người vui, nên nói hoan hỉ. Hoan hỉ là tên của hạnh, nên nói Hoan hỉ hạnh. Đây, ứng vào tự hoan hỉ, thuộc Trì nghiệp thích. Cũng là hạnh của sự hoan hỉ, ứng với việc khiến người hoan hỉ, thành tựu tự hạnh, nên thuộc Y chủ thích.

2/ Tịnh trì tam tụ tịnh giới, lợi cả mình và người.

3/ Nhẫn lực, ngưng trừ sân hận của mình và người.

4/ Tinh cần, tu nhiếp thắng đức vô tận.

5/ Chỉ quán, cả hai cùng hành thì si loạn đoạn tuyệt.

6/ Bát-nhã, chiếu lý thiện hiện sáng trong, cũng là quán thật tướng các pháp, Bát-nhã hiện tiền.

7/ Khéo khởi thắng hạnh, đối với ‘không’ chẳng trệ, dùng tâm vô trước khởi các sở hành.

8/ Đại nguyện vô ngại, nhiếp thiện căn thù thắng sâu xa đáng tôn trọng.

9/ Thâm đạt căn khí, khéo dùng pháp hóa.

10/ Ngôn hạnh tương ưng ‘bất không’ mà nhận tên.

Trong 10 thứ đó, được tên có ba : Hạnh thứ (8), là từ đức được tên. Hạnh thứ (3) (5) (7), là ứng vào việc lìa lỗi mà được tên. Các hạnh còn lại, đều từ công năng mà có tên.

b. Thể tánh: Trước là tổng, sau là biệt.
* Trong phần TỔNG có 3 môn :

1/ Ứng vào sở y, vì Thiện phục tam muội là thể, sau mới thuyết pháp. Vì y nơi định này, chứng thể của Thập hạnh rồi sau mới thuyết pháp. Địa Luận nói: «Tam muội này là pháp thể».    

2/ Ứng vào bản, Vì trong Bản phần, ‘hạnh nghiệp không thể nghĩ bàn’ là tánh. Đây là nghĩa rộng lớn thứ mười của tư số như đã giải thích trước. Vì là gốc của sự thuyết rộng nên là thể.

3/ Tóm thu : Ứng vào cảnh, là nhị đế song dung. Ứng vào hạnh, là bi trí vô ngại. Cũng là, tâm cảnh viên dung, pháp giới vô ngại đầy đủ vô biên đức, lấy đó làm thể tánh. Suy nghĩ thì có thể hiểu.

* Trong phần BIỆT, nói về thể tánh thì đều như chỗ giải thích của văn kinh sau nói.

Các môn còn lại chờ tạo riêng.[5]                    


V. THUYẾT PHẦN
: Giải thích Thập hạnh có hai phần :


1/ Quả phần đồng tánh hải bình đẳng không thể thuyết, nên trong đây không luận.

2/ Nhân phần, ứng vào duyên tùy đó mà thuyết. Có bốn lớp:

. Chỉ ứng vào ‘Tỉ vị hạnh’ mà nói, như kinh Nhân Vương và Bản Nghiệp nói.

. Chỉ nói ‘Tự thể Phổ Hiền hạnh’, như phẩm Hạnh Phổ Hiền nói. Đây, không y vào vị này.

. Dùng ‘Tự thể hạnh’ theo vị mà nói, như phần trường hàng ở đây đã nói.

. Hội nhiếp vị tướng theo hạnh của tự thể viên dung, như kệ sau nói.


Nay trong Thuyết phần này, chỉ nói về hai phần sau (c và d):

Trong văn kinh có hai : Trước, nói Thập hạnh của thế giới này. Sau, nói Thập hạnh ở mười phương giới. Vì đây, một thuyết là tất cả thuyết nên hợp thành một bộ.


THẬP HẠNH TẠI THẾ GIỚI NÀY

(Phần văn có các tiêu đề xanh này đều thuộc Thuyết phần)


Có hai : 1/Nói chính về Thập Hạnh. 2/Hiển tướng lợi ích của việc thuyết pháp.


I. NÓI CHÍNH VỀ THẬP HẠNH
: Giải thích riêng 10 hạnh, làm thành 10 đoạn.


1/ HOAN HỈ HẠNH
: Có 6 môn

A. Thể tánh : Có ba.

  A1/ Ứng vào tùy tướng : Có ba : 1/Do thiện căn không tham. 2/Đầy đủ tư nghiệp. 3/Kiêm giữ vô biểu của ba nghiệp. Giả thật luận chung thì ba thứ này là tánh. Đây là ứng vào Sơ giáo.

  A2/ Ứng vào tánh : Dùng chân như làm tánh. Luận Khởi Tín nói: “Biết tánh thể của pháp không san tham nên tùy thuận tu hạnh Đàn ba-la-mật”, là thuận đồng với công đức không tham trong pháp tánh. Đây là ứng vào Chung giáo.

  A3/ Ứng vào thật : Y theo văn kinh sau, trong môn thí, thì sở nhiếp pháp giới viên dung vô tận làm tánh. Đây là ứng vào Viên giáo.     

B. Chủng loại : Thí có 3 loại là tài, pháp và vô úy (không sợ).

  B1/ Tài thí : Có ba là trong, ngoài và cả hai.

a. Với vật ngoại thí : Có hai.

1/ Với vật không lỗi, tùy xin liền cho.

2/ Với những vật cụ có lỗi như đao, trượng, lưới săn, thuốc độc v.v… đều không nên cho, vì chỉ tăng thêm bất thiện.

b. Với vật nội thí : Có hai.

1/ Tự phá tâm san tham : Đối với người, nếu có ích thì liền thí cho, cũng có hai:

. Thí thân lực v.v…   

. Thí chân tay, xương cốt v.v…

2/ Tự san tham rồi phá : Với người thì có khi chỉ có an lạc mà không có nhiêu ích. Có khi cả hai đều không v.v… Với các hữu tình khác, có lợi lạc rộng rồi thì chẳng nên thí cho. Có khi thiên ma v.v… vì muốn tổn hại Bồ-tát mà xin, thì chẳng cho, không phạm lỗi, vì cứu các ác nghiệp. Các thứ này đều theo Du-già v.v… mà nói.

Có khi Bồ-tát sơ tâm chưa thể nhẫn chịu khổ, hẹn mà chưa cho thì cũng không phạm lỗi. Luận Thập Trụ nói: “Khiến thuyết kệ, an mẫn kẻ cầu xin rằng: Tôi mới phát đạo tâm, thiện căn chưa thành thục, nguyện tôi chóng thành thục, sau nhất định sẽ cho”.     

c. Với cả vật nội ngoại thí : Có hai :

. Thân và vương vị, y báo và chánh báo đồng xả, nên nói nội ngoại thí, như Thập Tạng nói.

. Xả bỏ lương thực, tóc, móng v.v… cũng gọi là xả nội ngoại thí, như Du-già nói.

  B2/ Pháp thí : Sẽ nói ở phần Đệ thập Hồi hướng.

  B3/ Vô úy thí :  Có khi dùng tài thí để cứu nguy, có khi thí pháp để giữ thân, có khi thí cả hai để khỏi khổ. Tất cả đều là Vô úy thí.

Có khi cả hai đều không, là với kẻ oán thì chẳng báo trả v.v…

Có khi cứu bạt khổ ách. Nói chung có hai loại :

. Căn duyên tương ưng thì cứu họ.

. Tác nghiệp thọ báo nhị chủng định thì tạm thời bỏ họ.

Nói về chủng loại thí này thì Du-già Địa Trì có 9 môn, Thập Tạng và Ly Thế Gian đều có 10 môn. Đệ lục Hồi hướng thì 120 môn, đều như kia đã nói.

C. Thu nhiếp : Có hai:

  C1/ Tam đàn nhiếp lục độ hạnh :[6]

Tài thí nhiếp độ đầu.

Vô úy nhiếp hai : Do trì giới nên ứng với sát thì không sát. Do nhẫn, nên ứng với trả thù thì không trả thù.

Pháp thí nhiếp ba : Cần nói thì nhất tâm mà nói, không nói điên đảo. Do phương tiện v.v… tứ trợ sáu thứ trước, nên Thập hạnh đều nhiếp tại hạnh đầu.

  C2/ Chỉ có tài thí : Cũng là Thập độ và vạn hạnh v.v… như trong Đệ thất địa nói.                      

D. Nhân quả : Có ba.

1/ Tùy phần quả : Là đại tài v.v…

2/ Vị quả : Địa tiền là nhân, đăng địa là quả v.v...

3/ Đắc Phật quả : Luận Phật Tánh quyển hai nói: “Xả có hai loại: Do xưa xả vật thí người nên nay giảm tham ái. Do xưa xả pháp thí người nên nay nhẹ diệt vô minh. Do các thứ xả đó mà tham ái vô minh đều nhẹ mỏng bớt”. Do nhân duyên đó mà được cái quả giải nói, cũng là thành tựu đại công đức tụ của Phật quả. Như phẩm Hiền Thủ đã nói.

E. Bí mật hạnh : Kinh Thương Chủ Thiên Tử ghi:

Lại hỏi Văn Thù Sư Lợi: Ông san tham chăng?

Đáp rằng: Ta thật là san tham.

Lại hỏi: Vì sao?

Đáp rằng: Nếu tâm không xả thì gọi là san tham.

Lại hỏi: Vì sao không xả thì gọi là san tham?

Đáp rằng: Ta thường chẳng xả chư Phật pháp chúng mà cũng chẳng xả tất cả chúng sinh. Do nghĩa đó mà nói ta san tham.     

F. Giải thích văn kinh : Có ba : 1/Tiêu đề. 2/Giải thích. 3/Kết luận.

  F1/ Tiêu đề : Câu Thế nào là Bồ tát Hoan hỉ hạnh.

  F2/ Giải thích : Có hai : Trước nói về tài thí. Sau nói về pháp thí.  

a. Nói về tài thí : Pháp sư Bắc Đài Ý nói: “Trước, nói về hạnh thể. Sau, từ ‘Khi Bồ-tát tu hạnh Hoan hỉ ...’ trở đi, là tịnh trị hạnh này”.

Cũng có thể phân thành ba:

. Hạnh thuận với lý nên tự hoan hỉ.  

. Tùy ‘Tâm cầu vật’ giúp người sinh hoan hỉ : Đoạn “Khi Bồ-tát tu hạnh Hoan hỉ ...”

. Lìa tam luân để thành tựu Đàn ba-la-mật : Đoạn “Lìa ngã tưởng, chúng sinh …”.

a.1 Hạnh thuận với lý nên tự hoan hỉ : Có hai : Trước, là giải thích. Sau, là kết luận.

Trong phần giải thích : Có ba: 1/Chánh hạnh là thí hạnh. 2/Hỏi sở ly. 3/Hiển sở cầu.

Chánh hạnh là thí hạnh cũng có ba :

Thí chủ, là muốn nói đến nghĩa thường thí, do tập quen thành tánh. Thường thí nên là chủ.

Xả ly tất cả, là giải thích để hiển nghĩa chủ. Đó là thuyết giải thí là tay giỏi xả mở.

Dùng tâm bình đẳng …, trong luận này nó mang nghĩa không nghiêng về bè đảng.

Thí rồi không tiếc, vì hạnh này thành tựu đại hỉ.  

Phần sở ly : Đây là ‘Ý lạc vô nhiễm’ trong Đối pháp. Có 4 câu:       

Chẳng mong cầu quả báo, là chẳng mong cầu quả báo tài sản chưa đến.

Chẳng cầu tiếng tăm, là chẳng cầu danh tiếng hiện tại.

Chẳng cầu sinh thắng xứ,  là chẳng cầu sinh vào thắng xứ của Nhân Thiên trong tương lai.

Chẳng cầu lợi dưỡng, là chẳng hy vọng vào lợi dưỡng trong hiện tại.

Phần sở cầu : Đã chẳng cầu báo sao lại có việc này? 10 câu sau hiển ý này.

Chỉ muốn cứu hộ tất cả chúng sinh, là muốn cứu sự bần khổ trong hiện tại.

Muốn nhiếp thủ tất cả chúng sinh, là nhiếp thủ khiến họ hướng về đạo.

Muốn nhiêu ích tất cả chúng sinh, là làm lợi ích khiến họ tu hành hạnh xuất ly.

Ba câu trên là dùng thí vật nhiếp sinh.   

Muốn học bản hạnh của tất cả chư Phật, là học tập bản hạnh xưa của chư Phật. Đây là khởi đầu của Tự phần.  

Muốn chỉ nhớ nghĩ bản hạnh của chư Phật, là nhớ nghĩ chân chánh. Đây là chung cuộc của Tự phần.

Muốn được bản hạnh thanh tịnh của chư Phật, là khởi đầu của Thắng tiến.

Muốn được thọ trì bản hạnh của chư Phật, là chung cuộc của Thắng tiến.

Bốn câu trên là theo vật mà hành.

Muốn hiển hiện bản hạnh của chư Phật, là hiển rộng. Hạnh này khiến việc bố thí của người thành tập.

Muốn thuyết rộng bản hạnh của chư Phật, là kèm với hạnh mà thuyết giảng, khiến người thọ trì học hỏi.

Muốn khiến tất cả lìa khổ được lạc, là kết ý truyền trao.

Ba câu này là dùng hạnh lợi vật.  

a.2 Tùy tâm cầu vật giúp người sinh hoan hỉ : Là đối duyên hành bố thí sinh sự hoan hỉ của chúng sinh. Trong đó có hai:

1/ Tổng nêu.

2/ Biệt hiển tướng của chúng : Có hai : Trước, nói về phương tiện tu thí. Sau, nói chính về thành hạnh.

a/ Phương tiện tu thí :

Chỗ nào bần cùng, là y chỉ vào ruộng khổ.

Nguyện sinh, là y chỉ vào nguyện. Đối pháp nói: “Y chỉ nguyện tu, là vì y chỉ vào bản nguyện lực, với Ba-la-mật-đa tu tập chánh hạnh».

Hào quí…, là ‘Y chỉ báo tu’ trong Đối pháp. Do lực tự thể thù thắng, với Ba-la-mật-đa tu tập chánh hạnh.

Tài bảo vô tận, là y chỉ đại tài, tu thành thí hạnh.

b/ Thành hạnh : Đoạn ‘Trong từng niệm … », là nói chính về thí hạnh. Theo luận Đối Pháp quyển thứ 12, thì Bồ-tát y chỉ 6 loại Ý thích Ba-la-mật-đa :

. Ý thích không chán : Chư Bồ-tát đối với một hữu tình, trong khoảng một sát-na, giả như dùng bảy báu đầy khắp thế giới như cát sông Hằng bố thí, lại dùng thân mệnh nhiều như cát sông Hằng bố thí, như thế trải qua các đại kiếp nhiều như cát sông Hằng. Với một hữu tình đã như vậy, cho đến tất cả hữu tình giới đều như vậy. Khi thí như thế đều khiến họ đối với A-nậu-đa-la-tam miệu tam bồ-đề chóng được thành tựu tu hành. Với các thời thí sai biệt như thế, ý thích của Bồ-tát vẫn không chán đủ thì nói là Bồ-tát đối với Ba-la-mật-đa, ý thích không chán.

. Ý thích rộng lớn : Ngay cả với bồ-đề, thí không hề dừng dù một chút v.v...

. Ý thích hoan hỉ : Gặp kẻ thọ thí v.v... 

. Ý thích ân đức : Với người đã thọ thí thì cần biết ân, vì đã giúp ta được bồ-đề.

. Ý thích không nhiễm : Tuy với hữu tình, đã cho đại thí phúc nhưng chẳng mong cầu quả dị thục báo ân trong tương lai.

. Ý thích thiện hảo : Quả thí rộng đều thí cho các hữu tình, lại dùng phúc đó cùng với các hữu tình hồi hướng bồ-đề. Nói đầy đủ thì như luận kia đã nói.  

Văn kinh đây có bốn : Trước là nói về ‘Ý thích không chán’ và ‘Ý thức rộng lớn’. Không có tài của, gọi là nghèo. Rỗng tận cùng, gọi là mạt.

Bồ-tát không vì những đòi cầu ... gấp bội, là nói về ‘Ý thích hoan hỉ’.

Mà nghĩ như vầy ... Phật đạo của ta, là nói về ‘Ý thích ân đức’. Vì sinh phúc cho ta nên nói phúc điền, khởi hạnh của ta nên nói thiện hữu.

Ta nay cần phải tu học ..., là kết luận báo ân chúng sinh.

Những công đức ta đã tu ..., là nói về ‘Ý thích thiện hảo’. Trong đó có ba :

. Dùng hạnh thành quả để cứu độ chúng sinh.

. Thí phúc cho chúng sinh khiến họ thành Phật trước.

. Sau đó tự mình mới được ... Có thể tự hiểu.

a.3 Lìa tam luân để thành tựu Đàn ba-la-mật : Đoạn “Lìa ngã tưởng …”.

Trong đó có hai :

a.3a Quán giải phá chấp : Lìa cả hai chấp. Đoạn “Lìa ngã tưởng … phi sở tác pháp”.

7 câu đầu nói lìa Nhân chấp.

Phúc ca-la , đây nói là ‘số thủ thú’, là thường thủ các thú. Cách dịch cũ là ‘nhân’. Theo Du-già quyển 83, có 8 tên gọi :

. Ngã : Đối với ngũ uẩn khởi ngã ngã sở thấy hành hiện tiền.

. Hữu tình : Vì các hiền thánh như thật liễu tri chỉ có tánh ấy hoàn toàn không có gì khác, cũng là đối với đó có ái trước.

. Ý sinh : Đây là Ý chủng loại tánh.  

. Ma-nạp-phọc-ca : Y chỉ nơi ý, có khi cao, có khi thấp.

. Dưỡng nuôi : Vì hay tăng trưởng hữu nghiệp, hay tạo tất cả dụng của sĩ phu.

.  Bổ-đặc-già-la : Nhiều lần qua lại các thú không chán đủ.  

. Mệnh : Vì hòa hợp lâu dài với sự sống hiện tại.

. Sinh : Vì sinh đầy đủ các pháp sở hữu.

 Theo Đại Bát-nhã thì có 13 tên gọi. 8 tên đồng với Du-già, thêm 5 thứ sau : 1/Tác. 2/Thọ. 3/Kiến. 4/Tri. 5/Sĩ phu. Đã giải thích trong luận Bát-nhã.

7 câu sau nói lìa Pháp chấp.

Pháp giới … , là chúng sinh giới không, cùng với pháp giới không có sai biệt.

Thể không, không chấp thủ nên nói lìa dục pháp

Phi chân thật pháp, vì tánh không quyết định thật.

Vô sỡ hữu pháp, là nói tướng vô sở hữu.

Phi kiên cố pháp, là không thể tự tại.

Phi cậy nhờ pháp, là không thể y cứ.

Phi sở tác pháp, là duyên thành, lìa tạo tác.

a.3b Quán thành xả tướng (Hay chỉ xả tam luân) : Đoạn “Khi Bồ-tát quán như thế … tiểu quả”. Có 9 câu:

Không thấy người thí, không thấy người nhận, không thấy tài vật, là thấy ba việc không. Luận Trang Nghiêm nói : «Thí có ba chướng ngại là ngã tướng, tha tướng và thí tướng. Chấp vào ba tướng ấy thì bố thí là Đàn thế gian, không phải Đàn ba-la-mật. Vì ở trong thế gian mà bất động bất xuất. Ly ba cái chấp ấy gọi là xuất thế ba-la-mật. Vì trong thế gian thì hay động hay xuất».  

Không thấy phúc điền, là không thấy sinh phúc điền.

Không thấy nghiệp, là không thấy nghiệp sinh ra phúc. 

Không thấy báo, là không thấy nhân thí được quả dị thục.

Không thấy quả, là không thấy ‘được quả đẳng lưu’.

Không thấy đại quả, là không thấy ‘được Phật địa đại quả’.

Không thấy tiểu quả, là không thấy tiểu quả đã đắc được trong địa Bồ-tát.

b. Nói về pháp thí: Có hai : 1/Nghĩ thương đời khổ. 2/Khởi ý nhiêu ích.

b.1 Nghĩ thương đời khổ : Đoạn «Bồ-tát quán sát … chẳng thể kiên cố». Là quán chúng sinh ba đời. Một, là bị vô minh che đậy. Hai, là bị Tứ trụ địa trói buộc. Hai thứ này đều là nhân khổ. Ba, là chịu quả khổ sâu dày. Bốn, là thiếu chỉnh tề, vì không được ba pháp kiên cố của Phật.

b.2  Khởi ý nhiêu ích : Đoạn «Ta phải … tam thế pháp». Trong đó, trước là tự tu Phật nhân, dạy người đồng với tập. sau, là tự mình thành Phật cũng khiến người đồng được. Đều khiến thanh tịnh, là đối với nhân khổ trước. Tùy thuận tịch diệt, là đối với quả khổ trước.    

F3/ Kết luận : Là câu Đó gọi là Hoan hỉ hạnh …


2/ NHIÊU ÍCH HẠNH
: Có 6 môn.

A. Thể tánh : Có ba môn.

A/1 Tùy tướng môn: Trên tư nghiệp mà giả lập vô biểu. Có ba sự : 1/Tư nghiệp. 2/Vô biểu. 3/Thân ngữ biểu nghiệp. Luận nói: «Bồ-tát giới lấy ba nghiệp thiện làm tánh» .

A/2 Tánh môn: Ứng vào gốc thì cũng lấy chân như làm tánh. Luận Khởi Tín nói: “Biết tánh thể của pháp thanh tịnh không nhiễm nên tùy thuận tu hạnh Giới ba-la-mật

A/3 Thật môn: Lấy pháp giới vô tận làm thể.

B. Chủng loại : Có 10 loại sai biệt.

1/ Theo kinh Phạm Võng v.v… có Bồ-tát tam qui giới.

2/ Theo kinh Thiện Sanh, có 5 giới, là giới của Bồ-tát tại gia.

3/ Theo Văn Thù Vấn Kinh, có 8 giới, gọi là giới của Bồ-tát thế gian.

4/ Cũng theo kinh đó, mà có 10 giới, là chỗ trì của Sadi, gọi là giới của Bồ-tát xuất gia.

5/ Theo kinh Phương đẳng, có 24 giới, cũng là giới mà Bồ-tát tại gia phải thọ.

6/ Theo kinh Anh Lạc và Phạm Võng, có Thập vô tận giới, thông cả tại gia và xuất gia, đều phải thọ trì.

7/ Theo Du-già Địa Trì, có Tứ ba-la-mật di giới. Xem tướng các giới đó thì thấy đa phần tương tự như giới của người xuất gia phải thọ, cũng kiêm luôn tại gia.

8/ Theo kinh Thiện Giới và Trọng Lâu Giới v.v…, có 8 trọng giới. Trên 4 trọng giới của Thanh văn thêm 4 trọng giới của Du-già, nên thành 8. Đây chỉ hạn cuộc trong Bồ-tát xuất gia. Vì đầu tiên phải thọ 5 giới, 10 giới, đầy đủ các giới mới được thọ Bồ-tát giới. Như 4 tầng lâu các dần dần thành tựu v.v…

9/ Lương Nhiếp Luận, phần Giới học nói: «Như Tì-nại-da Cù-sa-tì Phật Lược Kinh nói: Bồ-tát giới có mười vạn loại sai biệt».

10/ Theo kinh Hoa Nghiêm thì có thập thập v.v… vô tận giới phẩm. Như phẩm Thập Giới và Ly Thế Gian đã nói.     

C. Thu nhiếp : Theo luận Du-già thì giới giải thoát mà 7 chúng thọ trì, nhiếp thuộc Bồ-tát luật nghi giới. Lục độ Thập địa v.v… thì nhiếp thuộc Thiện pháp giới. Tứ nhiếp, Tứ vô lượng v.v… nhiếp thuộc Nhiêu ích hữu tình giới. Cũng có nhiếp nghĩa, như nói trong Đối Pháp Luận q.12.

D. Đắc quả : Có ba :

1/ Tùy vị mà đắc quả, Nhiếp Luận gọi là Đại sinh nhiếp, là do giới đã sở đắc lợi thắng, nhiếp thuộc thắng thiện thú.

2/ Do tư lương này, sẽ được thắng báo và giới tự tánh của hàng đăng địa.

3/ Được quả bồ-đề vô thượng, là do Luật nghi giới mà được cái quả đoạn đức pháp thân, do Nhiếp thiện giới mà được cái quả trí đức báo thân, do Ích chúng sinh giới mà được cái quả ân đức hóa thân.

E. Bí mật hạnh : Trong phần Tất đàn, Bồ-tát cũng phá giới. Như kinh Thương Chủ Thiên Tử nói:

Hỏi: ‘Như con suy nghĩ những điều Văn-thù nói, thì ngài đối với việc hiện nay là phá giới’.

Đáp: ‘Ta cũng phá giới’.

Hỏi: ‘Vì sao?’

Đáp: ‘Nếu người phá giới, người ấy đọa vào ba đường ác. Ta nên tư duy đọa vào ba đường ác để thành tựu chúng sinh. Vì nghĩa đó gọi ta là kẻ phá giới’.         

F. Giải thích văn kinh : Có ba : 1/Tiêu đề. 2/Giải thích. 3/Kết luận.

F/1 Tiêu đề : Câu Thế nào là Bồ tát Nhiêu ích hạnh?

F/2 Giải thích : Có hai : 1/Lược nói việc lìa lỗi để nói về hạnh thể. 2/Đối duyên hiển rộng hạnh dụng kiên cố.     

a/ Lược nói việc lìa lỗi để nói về hạnh thể: Có ba :

a.1 Nêu tịnh giới hạnh : Đoạn : «Bồ-tát trì giới …». Tự trì giới thanh tịnh, chẳng nhiễm sáu trần. Thuyết đó dạy người thành tựu hai hạnh tự lợi và lợi tha.

Sau, hiển hai ý :

a.2 Nói về chỗ ly : Đoạn «Không cầu sinh … đế vương».

a.3 Nói về chỗ vì của mình: Đoạn «Chỉ kiên trì … vô thượng». Trong đó không vì cầu thắng báo ở thế gian thì vì cầu việc gì? Vì này có 4 thứ:

. Vì lìa lỗi hoạn lớn của sinh tử. Tất cả phiền não hực lửa…, là nhân khổ. Ưu bi khổ não trói buộc, là quả khổ. Đây là chỗ ly của Luật nghi giới.

. Vì đối với chúng sinh không trái bi nguyện, nên nói không phụ. Vì ứng với bản hoằng nguyện mà cứu bạt, nên là chỗ thành tựu của Nhiếp chúng sinh giới.

. Trên thuận với Phật ý, nên khiến chư Phật hoan hỉ. Đây là chỗ thành tựu của Nhiếp thiện pháp giới.

Các thứ trên là ‘nhân’ tròn.

. Vì quả bồ đề mãn, nên nói rốt ráo thành tựu bồ-đề vô thượng.  

b/ Đối duyên hiển rộng hạnh dụng kiên cố : Có ba.

b.1 Khó giữ mà hay giữ : Đoạn  « Khi Bồ-tát trì tịnh giới như vầy … không có việc này». Đây là Luật nghi giới. Có sáu :

Trong một ngày …, là nói chẳng phải cảnh bức ngặt của Bồ-tát.

Ngũ dục là pháp chướng đạo…, là thấy sâu lỗi hoạn.

Bồ-tát chẳng sinh dục tâm…, là nói tâm kiên cố đồng với Phật.

Trừ khi phương tiện …, là không nghịch với phương tiện mà nội tâm càng kiên cố.

Chẳng vì nhân duyên ngũ dục …, là hiển tướng kiên cố. Trong đó, trước là giải thích thuận. Sau, từ Thà xả thân mạng…, là giải thích ngược lại.

Bồ-tát tự thấy Phật trở về sau …, là nêu nhẹ so sánh nặng. Từ lúc Sơ phát tâm cho đến nay, gọi là Phật trở về sau… Khoảng đó cho đến nay chưa từng có tâm khởi một dục tưởng, là nêu nhẹ. Hà huống là trên sự, là so sánh với nặng. Nghĩa là, tưởng còn chẳng khởi huống là có hình việc. Sau là luận ngược để kết luận về việc không ấy.

b.2 Khó cứu mà hay cứu : Đoạn «Bồ-tát suy nghĩ như vầy: ‘Chúng sinh đêm dài… khiến được khoái lạc». Đây là Nhiếp chúng sinh giới. Có ba :

b2a. Đoạn «Chúng sinh đêm dài … ra khỏi» : Suy niệm chúng sinh bị dục trói buộc. Có 5 câu : Chưa được tư cầu, gọi là nhớ nghĩ. Khởi cái thấy trói buộc nhiễm ô, nên nói tham trước. Được thâm vị rồi, nên nói ưa thích. Ở lâu chẳng bỏ, nên nói thường lưu chuyển. Về sau chẳng chán, nên nói chìm mãi không thể nào ra khỏi.

b2b. Đoạn «Ta nay cần phải … vô tri» : Lập chí nêu việc mình phải làm để nhiêu ích chúng sinh. Có hai :

Ta nay cần … rốt ráo, là nêu việc phải làm. Có ba : Đầu tiên là lập tịnh giới của Tam hiền (Địa tiền). Kế, khiến họ được Thập địa (Địa thượng) chẳng còn thối thất. Sau, thành tựu quả bồ-đề niết bàn.

Vì sao …, là giải thích để hiển ý trên.

Trước là hỏi. Ý là, tha nhân có kẻ ác với ta, sao lại cần kíp?

Sau giải thích Vì đó là nghiệp của ta. Nghĩa là, giúp chúng sinh lập tịnh giới cho đến được niết bàn là gia nghiệp pháp nhĩ của chư Bồ-tát, cho nên cần phải làm. Gốc của ba đời chư Phật khi còn tại nhân cũng đồng làm việc này. An người bằng tịnh giới cho đến niết bàn, nên nói lìa các phi hạnh. Hại mình không gì bằng hành nó quá muộn,[7] do ta vô tri xưa nay không làm, nay mới bắt đầu làm là còn quá chậm.   

b2c. Đoạn «Quán tất cả thâm pháp … được khoái lạc» : Y thuận nơi lý dùng pháp để chánh lợi ích. Có ba.

. Quán tất cả … , là được pháp bình đẳng, vì chúng sinh thuyết pháp trừ điên đảo.

. Đoạn «Chẳng lìa chúng sinh … khi cuống ngu phu», là giải thích tướng điên đảo tức là bình đẳng.[8] Chúng sinh, là Y tha duyên khởi tánh. Điên đảo, là Vọng tưởng sở chấp tánh. Y nơi tương tợ mà chấp thật, là chẳng lìa chúng sinh mà có điên đảo. Y nơi chấp tương tợ khởi, là chẳng lìa điên đảo mà có chúng sinh.

Điên đảo khởi chúng sinh mà trong điên đảo không có chúng sinh. Chúng sinh khởi điên đảo mà trong chúng sinh không có điên đảo.

Điên đảo từ chúng sinh khởi mà điên đảo không phải là chúng sinh. Chúng sinh từ điên đảo có mà chúng sinh không phải là điên đảo.

Ngay chúng sinh không phải điên đảo, điên đảo không phải trong. Lìa chúng sinh không có điên đảo, điên đảo không phải ngoài.

Chúng sinh cũng như vậy, tương y, tương đoạt, cả hai đều không phải trong hay ngoài, không, vô sỡ hữu, không loại trừ tất cả pháp, đều là hư vọng chẳng thật.   

. Đoạn «Ngộ tất cả pháp … khoái lạc », là nói về lợi ích của quán giải.

Ngộ tất cả pháp …, là lợi ích của việc tự biết.

. Đoạn «Chưa độ … khoái lạc», là lợi ích của lợi tha. Trong đó có 9 câu :

Chưa độ thì độ, là khiến độ khổ (khiến cho qua khổ).

Chưa thoát thì thoát, là khiến thoát tập.

Chưa điều phục khiến điều phục, là trao cho giới học.

Chưa tịch tĩnh khiến được tịch tĩnh, là trao cho định học. 

Chưa an ổn khiến được an ổn, là trao cho tuệ học.

Chưa ly cấu khiến được ly cấu, là khiến lìa thô hoặc.

Tế tập cũng hết nên nói thanh tịnh.

Chưa niết bàn khiến được niết bàn, là khiến được niết bàn.  

Chưa khoái lạc khiến được khoái lạc, là khiến được bồ-đề.

b3. Khó làm mà hay làm : Đoạn «Ta sẽ xả ly … ». Đây là Nhiếp thiện pháp giới. Có năm:

Khởi nguyện tâm tu thiện, thuận với trên, nên khiến Phật thảy đều hoan hỉ.

Thành tựu đầy đủ …, là xuất các hỉ sự, thành tựu Phật nhân, an trụ Phật quả.

Chánh quán bình đẳng … , là thành tựu quán giải, là giác chúng sinh bình đẳng, biết rõ pháp cũng không.

Chóng lìa các ác … , là xa lìa nhiễm chướng. Trong đó, lìa các ác là xả nghiệp chướng, còn lại là xả phiền não chướng.

Thành tựu phương tiện…, là thành tựu tịnh đức. Câu đầu là nhân. Đều được … là thành tựu quả. Trước là được giáo trí. Phần không tuệ nói sau là chứng trí.


3/ VÔ KHUỀ HẬN HẠNH
: Chính là Nhẫn độ. Có 5 môn.

A. Thể tánh : Luận Du-già nói Nhẫn có ba thứ :

1/ Nại oán hại nhẫn. Vì vô khuể (không tức giận). Thiện căn tương ưng với tuệ số làm thể, duyên chúng sinh làm cảnh. 

2/ An thọ khổ nhẫn. Vì tinh tấn, tương ưng tuệ số làm thể, duyên pháp làm cảnh.

3/ Pháp tư thắng giải nhẫn. Vì định tuệ nhị số làm thể, duyên vô pháp làm cảnh. Vì chánh trí nhập quán cảnh trí đồng như. Cũng luận chung bốn pháp làm thể : Trước là không sân. Kế là cần. Sau là tuệ cùng với tư. Tam nghiệp này thông với trước. Luận Khởi Tín nói: «Biết pháp tánh thể không sân, lìa nhiệt não nên tùy thuận tu hạnh Nhẫn ba-la-mật».

Tu nhẫn phương tiện... là ứng vào nhẫn đầu. Luận Trang Nghiêm nói : «Do tam tư ngũ tưởng liền có thể nhẫn chịu».

. Tam tư (Ba suy nghĩ) là :

1/ Suy nghĩ người hủy báng ta là do nghiệp của tự ta. Nếu báo là nặng thì nói khổ khổ chẳng do nơi người.

2/ Suy nghĩ người và ta đều là hành khổ. Vì kia vô tri, với khổ lại thêm khổ. Ta nay có tri, vì sao lại như vậy?

3/ Thanh văn tự lợi còn không làm khổ thêm cho người, Bồ-tát lợi tha sao có thể làm khổ thêm cho đời.

. Ngũ tưởng là :

1/ Tu Bản thân tưởng : Tất cả chúng sinh từ xưa đến nay không gì không phải là thân thuộc.

2/ Tu Pháp tưởng : Đánh mắng là không thể được.

3/ Tu Vô thường tưởng : Tánh chúng sinh là chết, pháp còn chẳng nên sân, huống là thêm hại.

4/ Tu khổ tưởng : Chúng sinh chẳng lìa tam khổ. Chỉ nên khiến lìa, chẳng nên thêm.

5/ Tu nhiếp thủ tưởng : Bản nguyện là khiến chúng sinh an lạc không phải khiến họ khổ. Trí Luận nói : «Nếu bị hủy hại chỉ nên suy nghĩ pháp đối trị, chẳng nên khởi sân. Như gặp gió mưa chỉ nên tìm chỗ núp mà không sân với nó». Nói rộng thì như Trí Luận, có nhiều môn.

B. Chủng loại:

. Có khi chỉ một, là Nhẫn độ.

. Có khi có hai, như Trí Luận nói : 1/Chúng sinh nhẫn. 2/Pháp nhẫn.

. Có khi có ba, như trước đã nói.

. Có khi có năm, là Tín nhẫn v.v…

. Có khi có mười, như phẩm Thập Nhẫn và Ly Thế Gian nói.          

C. Bí mật: Kinh Thương Chủ nói:

Lại hỏi: Văn Thù, ngài có tâm sân khuể không?  

Đáp rằng : Như vậy.

Lại hỏi : Vì sao?

Đáp rằng : Há không có sân tâm thì không có ái sao?

Hỏi : Như vậy.

Văn Thù đáp : Ta đối với phiền não của Nhị thừa, không có ái niệm. Vì nghĩa này nên ta có sân tâm.

Các môn còn lại như đã nói.

E. Giải thích:

E/1 Tiêu đề : Nêu hạnh hiển ý.

Bồ-tát này thường hay … , là tổng nêu.

Khiêm hạ … , là biệt hiển. Trước là hiển tự hạnh, sau là dạy người. 

a. Hiển tự hạnh: Ứng vào tánh tam nghiệp mà có nhẫn tướng. Vì tự khiêm hạ cung kính người là tướng của tâm nhẫn. Hòa nhan, là tướng của thân nhẫn. Ái ngữ, là tướng của khẩu nhẫn. Sau là ứng vào lìa tam độc mà hiện thành nhẫn tướng.

Không hại mình …, là lìa sân. Tự có khổ sự thì chẳng thể có an nhẫn. Tự hình hại v.v… là  nghịch với hạnh An thọ khổ nhẫn. Đối với oán chẳng chồng thêm, là không hại người. Đây là Nại oán hại nhẫn. Đồng nói về hai thứ trước, nên nói cả hai. Trí Luận có hai nhẫn : 1/Đối với nghịch mà hay nhẫn. 2/Đối với thuận mà hay nhẫn. Vừa rồi là nói về nghịch nhẫn.

Không đưa mình lên …, là ly tham, là đối với thuận mà nhẫn, là chẳng vì danh lợi mà khởi kiêu mạn, tự cao và láo xấc với người. Với người cả hai, có thể tự biết.

Không thị mình …, là ly si. Không nói mình phải, là lìa kiêu mạn. Không dối ngươi đúng, là lìa xiểm khúc. Cả hai đều lìa thì không thị cả hai. Lại, đối với những gì đã làm tự chẳng cho là phải, với chỗ đáng yêu không nói kia là đúng, cả hai đều xả, không nói cả hai đều đúng, là tướng của Pháp tư thắng giải nhẫn.

Cũng có thể giải thích : Ứng vào tam nghiệp, trước là do hòa nhan nên không hại. Kế, do khiêm hạ nên không đưa mình lên. Sau, do ái ngữ nên không thị.

b. Dạy người: Cũng là hiển ý. Vì muốn dạy người đoạn ác, trước phải tự tu nhẫn.

Đoạn tham …, là dạy lìa lỗi.

Dùng pháp đại nhẫn …, là thành tựu trị hạnh. Dùng cả tam nhẫn trị tam độc v.v… nên nói đại nhẫn.

E/2 Đối duyên nói về tướng nhẫn hạnh : Là khó nhẫn mà nhẫn. Có hai :

1/ Nêu rộng hại nhục: Có bốn : 1/Nhiều chúng sinh. 2/Nhiều hủy nhục. 3/Nhiều tổn hại. 4/Trải qua nhiều kiếp. Đây là việc khó nhẫn.

2/ Với nhục có thể nhẫn: An tâm có thể nhẫn. Cũng có bốn:1/Thấy sâu lỗi của sân mà nhẫn. 2/Suy nghĩ về những gì đã qua mà gắng sức khiến nhẫn. 3/Thân và khổ đều không mà nhẫn. 4/ Đồng Phật nhiếp sinh mà nhẫn.

a. Thấy sâu lỗi của sân mà nhẫn : Đây là gặp khổ mà sinh sân nhuế, là phản nêu cái chẳng nhẫn. Sau là hiển lỗi của nó, có 8 câu : 7 lỗi đầu là lỗi của tự hạnh :

. Lỗi chẳng tự điều phục tâm.  

. Lỗi chẳng tự thủ hộ thân khẩu.

Hai lỗi đó là lỗi không có giới.

. Không có trí tuệ là do sân nhuế che phủ tâm. Chẳng thấy lý pháp gọi là chẳng minh liễu.

. Do sân ám tâm nên chẳng tịch tĩnh. Cái này làm chướng phương tiện tu định.

. Chướng ngại tu chánh định.

. Lỗi hành hư dối không phải thật.

Các thứ trên là lỗi chướng thiện.

. Lỗi tăng ác. Do tự yêu mình mà chẳng chịu sự xâm phạm của người, nên dẫn đến sân não, làm tăng ác nghiệp.

Sao có thể giúp người …, là nói về lỗi mất lợi tha. Sao có thể giúp người sinh tâm hoan hỉ, là nói không có cái thiện đầu. Mà được độ thoát, là nói không có cái lợi sau cùng.

b. Suy nghĩ về quá khứ mà gắng sức khiến nhẫn : Là tự suy nghĩ, do cái nhân quá khứ hộ trì thân tâm này, khởi tranh tạo ác chịu khổ vô cùng. Nay nếu không nhẫn lại tăng thêm khổ, nhiều kiếp chẳng dừng, do đây tự khích lệ khiến tâm hoan hỉ mà nhẫn.

Cũng có thể giải thích : Do ta có thân tâm này làm khổ nhân khiến người có các sự não hại. Khổ vốn tại mình, sao chẳng tự trách? Kinh Niết Bàn nói: «Nhân nơi tay, dao, gậy và thân ta mà được gọi là đánh đập», ta nay chẳng nên mở rộng cái sân với người, là thân ta tự chiêu lấy cái xấu này. Thí như nhân nơi đích nhắm mà có mũi tên trúng. Ta cũng như vậy, có thân, có sự đánh đập. Do đây mà tự khích lệ.

Cũng có thể giải thích : Ta, vào thời quá khứ, chưa từng không có thân tâm phàm ngu. Có khi do ác nghiệp, ở nơi địa ngục v.v… còn vô lượng kiếp dối chịu đại khổ, không một chút lợi ích, huống nay chịu cái khổ nhỏ này mà thành tựu hạnh đại nhẫn của Bồ-tát? Do đây mà tự khích lệ nên sinh hoan hỉ. Ở môn nhẫn trước đã nói, đây lặp lại. Khuyến tâm chẳng thối, khích tâm khiến tiến. Do thấy lợi ích đó mà đối với nhục vui vẻ nhận chịu, gọi là tâm hoan hỉ. Điều tâm lìa phẫn, nhiếp chẳng tạo ác, gọi là điều nhiếp.

Vì sao? Vì ta …, là giải thích ý điều nhiếp. Trước là hỏi. Sau giải thích. Vì khiến người và ta đều an trụ pháp vô thượng, nên đây cũng thuộc An thọ khổ nhẫn.  

c. Thân và khổ đều không mà nhẫn: Đối với hai môn trước nên nói Rồi lại tư duy. Kinh Tư Ích nói : «Các pháp niệm niệm diệt, tánh ấy thường chẳng trụ, trong đó không mắng nhục, cũng không có cung kính. Nếu thời thời hiểu thân, tâm ấy thường chẳng động. Biết tâm chẳng ở trong, cũng lại chẳng ở ngoài, thân oán cùng dao gậy, đều từ tứ đại khởi, nơi địa thủy hỏa phong, chưa từng có thương tổn». Trong đó, Thân này không tịch…, là nói về Sinh không. Không chân thật…, là nói về Pháp không. Đây là tự quán.

Vì các pháp không..., là nói về lợi tha. Nếu muốn vì người mà thuyết không, há có thể tự mê mà chẳng nhẫn. Cho nên ta nay tuy gặp khổ..., là kết luận, có thể tự hiểu. Đây thuộc Pháp tư thắng giải nhẫn.

d. Đồng Phật nhiếp sinh nhẫn: Đoạn «Vì thương chúng sinh … bồ-đề vô thượng», có 7 câu niệm chúng sinh khổ.

Vì thương chúng sinh, là thương chúng sinh có ác.

Nhiêu ích chúng sinh, là làm lợi ích cho chúng sinh khiến họ tu thiện.

An ổn chúng sinh, là an quả lạc của họ.

Không khiến họ đắm trước cái lạc nên nói nhiếp thủ chúng sinh.

Chóng khiến họ đến Phật quả, nên nói chẳng bỏ chúng sinh. Đây là khiến họ đến Địa tiền.

Muốn khiến chúng sinh được bất thối chuyển, là khiến họ được đăng địa chẳng còn thối chuyển. Thành tựu …, là khiến được quả bồ-đề rốt ráo.  

Pháp Phật đã hành ta phải tu hành, là muốn đồng với sự cứu hộ của Phật. Chư Phật khi còn ở nhân địa, tu hành pháp này, ta nay cũng đồng phương tiện, đối với chúng sinh tạo đại nhiêu ích, sao có thể không nhẫn mà còn thêm não hại, nên nói Pháp Phật đã hành …        


4/ VÔ TẬN HẠNH
: [9] Chính là Tinh tấn ba-la-mật. Có 4 môn :

A. Thể tánh: Khuyến tư duy hai pháp làm thể. Theo luận Đại Thừa Khởi Tín là «Biết pháp tánh không  … ».

B. Chủng loại: Theo Du-già, tinh tấn có ba :

. Mặc giáp tinh tấn, là mới tu.

. Gia hạnh tinh tấn, là thứ tu.

. Vô yểm túc tinh tấn, là tu rốt ráo.

Dùng ba nghiệp sách cần làm tánh. Còn văn kinh đây cùng với phẩm Ly Thế Gian sau thì đều nói 10 loại tinh tấn.

C. Bí mật: Kinh Thương Chủ nói:

Hỏi : Thưa ngài Văn Thù, ngài có giải đãi chăng?

Đáp : Có.

Hỏi :Vì sao?

Đáp : Phàm giải đãi thì không dùng thân khẩu ý phát tu các hạnh. Ta nay như vậy. Cũng chẳng phát hạnh, cũng chẳng muốn hành, chẳng xả, chẳng thủ. Vì nghĩa đó nên ta, gọi là giải đãi.   

D. Giải thích: Trong có hai: 1/Nêu hạnh hiển ý. 2/Đối duyên biện tướng. Trước, cũng là hạnh thể của đương vị. Sau, là hạnh khó có thể hành, tịnh trị hạnh này.

D/1 Nêu hạnh hiển ý : Có hai : Trước là nêu hạnh. Sau, là hiển ý.

a. Nêu hạnh: Trước là hạnh thể. Sau là lìa lỗi.

a1. Hạnh thể: Đoạn «Bồ-tát này siêng tu … đẳng đẳng tinh tấn».

Bồ tát này siêng tu tinh tấn, là câu tổng. 9 câu còn lại là biệt.

Vượt phàm gọi là thắng. Vượt tiểu gọi là tối. Tu thiện hạnh tột cùng, gọi là đệ nhất. Dạy người hành tối cùng, gọi là đại. Lìa lỗi, hành tột cùng, gọi là diệu. Trên vượt dưới, gọi là thượng. Dưới chẳng thể thêm, gọi là vô thượng. Dưới không thể bằng gọi là vô đẳng. Vượt dưới đồng với trên, gọi là vô đẳng đẳng.

a2. Lìa lỗi: Đoạn «Bồ-tát này không bị … não loạn». Lìa phiền não lớn nhỏ, chung có 10 thứ, như văn kinh đã nói. Trên thuộc Mặc giáp tinh tấn, cũng gọi là Cần dũng tinh tấn.

b. Hiển ý: Đoạn «Ta không muốn … ». 

Không muốn não hại chúng sinh, là hiển chỗ lìa (Sở ly). Sau là chánh hiển chỗ vì (sở vị). Trong đó có 20 câu phân làm ba.

. 3 câu đầu là đoạn hoặc.

Chỉ muốn xả ly các phiền não…, là hàng phục, lìa hiện hành.

Muốn dẹp tất cả kiết sử…, là trừ diệt chủng tử.

Muốn lìa tất cả tập khí…, là lìa những tập khí thừa.

. 7 câu sau là biết sở hóa nhiếp sinh.

Muốn đều phân biệt tất cả chúng sinh …, là câu tổng. 6 câu sau là biệt.

Muốn biết tất cả chúng sinh sinh đây chết kia … Muốn biết phiền não tập …, là biết nhiễm lỗi. Câu đầu là biết khổ báo chuyển. Câu hai là biết hoặc tập nhân.

Muốn biết các thứ hy vọng …, 4 câu này nói về khí lực thọ pháp. Muốn biết các thứ hy vọng, là ưa thích nhiều môn. Muốn biết các cảnh giới, là nói về phần tề sai biệt. Muốn biết các căn, là nói căn có lợi độn. Muốn biết tâm tâm sở hành, là nói tâm sở niệm có khác.

. 10 câu sau là biết pháp lý.

Muốn biết cảnh giới của tất cả pháp, là câu tổng. 9 câu còn lại thuộc biệt.

Muốn biết thật pháp … 4 câu, là biết Phật pháp lý. Muốn biết thật pháp …, là biết Như Lai tạng đầy đủ hằng sa công đức, thật tánh bất không. Muốn biết pháp bình đẳng của tất cả chư Phật, là nói Như Lai tạng tại nhiễm, đương tướng bình đẳng. Muốn dùng thiện phương tiện …, là ứng vào nhân vị, ba mé trước sau chẳng khác. Muốn biết pháp bình đẳng thanh tịnh, là tịnh vị tại quả cũng vô sinh bình đẳng. Ba thứ này cũng là ba loại Phật tánh. Đầu là ứng vào tự tánh trụ. Kế là ứng vào dẫn xuất. Sau là đến được quả. Lại, đầu là tự tánh vô sinh nói trong Địa Luận. Kế, là số sai biệt vô sinh. Sau, là Phật quả tác nghiệp vô sinh.

Muốn được pháp của tất cả chư Phật… Muốn dùng một môn phương tiện biết tất cả Phật pháp, là chứng quả pháp. Câu trước là nêu. Câu sau là giải thích. Là dùng một môn xảo trí nhiếp rộng pháp của Phật quả.

Muốn biết vô lượng vô biên bất khả tư nghì của chư Phật… Muốn biết đại trí tuệ và thiện phương tiện của chư Phật, là muốn biết pháp đại dụng tại Phật quả. Trước là biết vô tận thần thông công đức của Phật. Sau, biết công đức trí tuệ quyền thật của Phật. Phương tiện thì thuộc quyền.

Muốn biết tất cả Phật pháp rộng vì chúng sinh …, là biết giáo pháp của Phật.

Cũng có thể giải thích : 4 câu đầu là ứng vào gia hạnh. 2 câu kế là ứng vào chánh thể. 3 câu sau là ứng vào hậu đắc.

Trong 20 câu này, 3 câu đầu là ứng vào tự lợi. Còn lại, là ứng vào lợi tha. Trong đó, 7 câu đầu là biết căn khí của kẻ được giáo hóa. 9 câu kế là biết về pháp dược giáo hóa. 1 câu sau, là dùng pháp trao cơ. Có thể tự hiểu.       

D2. Đối duyên biện tướng : Đối duyên khó hành hiển hạnh kiên cố. Trong đó có hai:

Trước, đoạn «Nếu có người nói … thành đạo vô thượng», là giả nêu trọng khổ lấy đó hỏi là chủ yếu để hiển hạnh. Hai câu trước là hỏi, hai câu sau đáp.

Sau, đoạn «Lại có người… » , là giả dùng trần hải khiến số yếu hiển. Cũng trước hỏi sau đáp.

Trong phần đáp cũng có hai : Trước là lợi ích khiến người khỏi khổ. Sau là ích lợi thành quả của ta và người. Các thứ trên đều thuộc Nan hoại tinh tấn[10] nói trong Nhiếp Luận, thuộc Vô yểm túc tinh tấn trong Du-già.


5/ LY SI LOẠN HẠNH
:[11] Chính là Thiền ba-la-mật. Cũng có bốn môn.

A. Thể tánh: Lấy ‘định’ trong biệt cảnh làm thể. Luận Đại thừa khởi Tín nói : «Vì biết pháp tánh… ».

B. Chủng loại: Theo Du-già có 3 loại :

1/ Hiện pháp lạc trụ tĩnh tư, là bát định v.v..

2/ Nhiêu ích hữu tình tĩnh tư, vì y đây khởi Tứ nhiếp nhiếp hóa hữu tình v.v…

3/ Dẫn thần thông công đức tĩnh tư, vì hay dẫn Thập bát biến v.v…  

Văn kinh sau thì có 10 loại vì hiển vô tận.

C. Bí mật: Trong kinh Thương Chủ, Văn Thù nói : «Ta có loạn tâm. Vì sao? Phàm loạn tâm thì không có trụ xứ. Ta, ở trong thánh vị, tâm được giải thoát, thành tựu tất cả chúng sinh, nên không có trụ xứ. Vì nghĩa ấy mà nói ta loạn tâm».

D. Giải thích văn kinh: Do tu quán lìa si tập mà dừng loạn. Nhiếp Luận nói : «Chư Bồ-tát ở trong các vị thường tu hai hạnh : 1/Không điên đảo. 2/Không tán loạn», chính là hạnh này.

Trong văn kinh có ba : 1/Hiện pháp lạc trụ thiền. 2/Dẫn sinh công đức thiền. 3/Lợi ích chúng sinh thiền.

D1/ Hiện pháp lạc trụ thiền : Đoạn «Bồ-tát này thành tựu … không có sai biệt». Có hai : Trước là tổng. Sau, là biệt.

a. TỔNG : Có 11 câu.

a.1 Nêu hai chương : Hai câu. Đệ nhất tối thắng thanh…, là lìa loạn. Xả lìa si ám… , là li si.

a.2 Lịch pháp thông biện : Tám câu, theo nhau thành bốn :

. Hay khéo thọ trì…, là ứng vào chỗ thọ trì.

. Hai câu Tử đây sinh kia… Tại thai …, là lưu chuyển thọ thân. Đây là bi nguyện lưu hoặc thọ thân, nên không có si loạn. Phần Lục địa sau nói: «Tử có hai loại tác. Một, vì không biết, khiến hậu sinh tương tục», là ứng vào phàm phu mà nói. Kinh Đại Tập cũng nói : «Phàm phu thọ thai, nam thì ở nơi mẹ sinh ái, nữ thì đối với cha sinh ái, cho nên nhập thai si loạn». Lại, ở trong thai tình thức phân minh, khi ra thì khổ bức, bèn thành hôn loạn.[12] Bồ-tát khác với đó. Vào hay ra đều không có si loạn v.v…

Du-già q.2 có nói về 4 loại nhập thai :

1/ Chánh tri nhập mà không chánh tri trụ và xuất, là Luân vương.

2/ Chánh tri nhập và trụ mà không chánh tri xuất, là Độc giác.

3/ Chánh tri đầy đủ, là Bồ-tát.

4/ Đều chẳng chánh tri, là các loài hữu tình còn lại.

. Ba câu Trụ tâm bồ-đề…, thân cận thiện tri thức …, Học các Phật pháp…, là ứng vào tu đạo khởi hạnh. Có thể tự biết.

. Hai câu Giác các ma sự… Chóng lìa ma sự …, là ứng vào ma sự. Vì khi tu chánh quán thì đa phần bị ma tà quỉ v.v… não loạn, nên phải nói về nó. Như Đại Thừa Khởi Tín Luận Sớ đã nói.

a.3 Kết luận : Trong vô lượng kiếp…, là nhiều kiếp tu hành.

a. BIỆT : Đoạn «Bồ-tát này thành tựu…». Có hai : Trước nói về ly si, sau nói về lìa loạn.

a.1 Ly si: Đoạn «Bồ-tát thành tựu … trí tuệ».

Bồ-tát thành tựu vô lượng vô số…, là lặp lại phần trước.

Trong vô lượng vô số a-tăng-kỳ kiếp…, là hiển phần sau:

1/ Do lìa si ám mà nghe pháp chẳng mất : Đoạn «Trong vô lượng … chưa từng thối thất». Có ba :

1/a Tổng : Câu Trong vô lượng ….

1/b Biệt : Đoạn «Đó là pháp… tự tại » Có 17 câu pháp :

Pháp thậm thâm, là thể thâm. Pháp vi diệu, là tướng diệu. Hai thứ này thuộc lý pháp.

Pháp trang nghiêm, là đầy đủ công đức. Pháp chủng chủng trang nghiêm, là nhiều đức. Hai thứ này thuộc hạnh pháp.

Pháp chủng chủng danh vị cú thân, là giáo pháp. Pháp Bồ-tát trang nghiêm, là nhân pháp. Pháp vô thượng trang nghiêm của chư Phật, là quả pháp. Pháp thanh tịnh chánh hy vọng, là dục nguyện pháp.

Pháp chẳng nhiễm tất cả thế gian, là cư thế gian nhiễm pháp. Pháp phân biệt tất cả thế gian, là khéo phân biệt đối với thế gian. Hai thứ này là trí pháp.

Sở tri trùm khắp, gọi là Quảng pháp. Sở tri nhiều môn, gọi là Vô lượng pháp. Pháp xả ly si ám phân biệt thế gian, là phân tích phán đoán pháp rõ ràng.  

Chân thông, gọi là cọng pháp. Tục khác, là bất cọng pháp.

Pháp cảnh giới Bồ-tát trí, là pháp sở tri ở nhân vị có hạn lượng.

Pháp nhất thiết trí tự tại, là pháp sở tri ở quả vị không có phần hạn.

1/c Kết : Câu Bồ-tát nghe pháp đó rồi…, là do lia si ám nên tuy nghe nhiều pháp mà lâu xa vẫn không mất.

2/ Giải thích thành: Đoạn «Vì sao…». Trước là hỏi. Sau là giải thích, có bốn câu:

Chưa từng não loạn chúng sinh, chánh niệm tam muội, là Bất não tha định.[13]

Chẳng đoạn chánh pháp, là thường hộ chánh pháp.

Chẳng đoạn thiện căn, là tu thiện không ngừng. 

Chẳng đoạn trí tuệ, là trí tuệ thường hành.

Do đó chẳng mất.

a.2 Lìa loạn: Đoạn «Bồ-tát này … ». Có hai:

1/ Do không có túc chướng: Đoạn «Bồ-tát này… không có chướng hủy báng». Nghe nhiều âm thanh nhưng do không có chướng đời trước, nên không loạn. Có ba :

. Đoạn «Đó là … sáu căn», là nghe 6 loại âm thanh.

. Đoạn «Bồ-tát nghe vô lượng … chẳng loạn», là nói về 12 thứ chẳng loạn. Trong phần giải thích, 8 thứ trước là tự hạnh chẳng loạn. 4 thứ sau là lợi tha chẳng loạn.

Nghe các âm thanh tốt xấu …, vì biết thể của âm thanh là không nên chánh niệm chẳng loạn. Bồ-tát, với sáu trần cảnh đều chẳng loạn, nhưng vì âm thanh lớn chát là mạnh trong các thứ não loạn, nên nghiêng về đó mà học.

Tam muội chẳng loạn, là chánh định chẳng bỏ.

Cảnh giới chẳng loạn, là sở duyên chẳng lầm.

Nhập pháp vi diệu chẳng loạn, là nhập lý chẳng lầm.

Bồ-tát hạnh chẳng loạn, là Đàn ba la mật v.v… thường hành.

Tu tập tâm bồ-đề chẳng loạn, là bản tâm không quên, là tập nguyện bồ-đề.

Niệm Phật tam muội chẳng loạn, là Niệm Phật định.

Quán sát pháp chân thật chẳng loạn, là nói về thể.

8 thứ trên là tự lợi [14]. 4 thứ sau là lợi tha.

Giáo hóa chúng sinh trí chẳng loạn, là tương khởi hóa trí.

Thành tựu chúng sinh chẳng loạn, là chánh thành hóa sự.

An lập chúng sinh thanh tịnh trí chẳng loạn, là hóa sở thành ích.

Quán sát nghĩa thậm thâm chẳng loạn, là quán hóa sự không.

Tuy nghe các âm thanh đó mà không bỏ các thứ này.

Bản sở thường hành nên nói chẳng loạn.

Sau là giải thích lý do thành tựu, là do không có 4 chướng.

1.c Đoạn «Chẳng hành ác nghiệp … chướng hủy báng», là không có 4 chướng.      

Chẳng hành ác nghiệp … Chẳng hành phiền não …, là chẳng hành hai chướng hoặc nghiệp.

Chẳng hành việc bất cung kính… Chẳng hành pháp hủy báng …, là tôn người trọng pháp nên được như vậy, chẳng bị não loạn.   

2/ Do khéo quán sát: Đoạn «Vô lượng các âm thanh … ». Nghe các âm thanh rộng khắp nhưng do khéo quán sát nên chẳng loạn. Trước, là tổng nêu âm thanh rộng chẳng thể não loạn. Sau, giải thích lý do không thể não loạn. Có ba :

. Đoạn «Vô lượng các loại…nghe âm thanh», là Tầm tư phương tiện quán. Trước, là quán tướng âm thanh sinh diệt không ngừng. Kế, là quán tánh của chúng bất khả đắc. Sau, quán năng nghe duyên hội, là nghe mà không có người nghe.

. Đoạn «Nghe âm thanh xấu tốt … nhiễm trước», là Như thật ly nhiễm quán.

. Đoạn «Biết tất cả âm thanh… », là Chánh chứng pháp tánh quán. Trong đó, trước nói tướng tận, cùng với pháp tánh đồng. Sau nói tánh hiển, âm thanh đó chẳng phải chân, chẳng thể hoại loạn chánh niệm của Bồ-tát, bèn cùng với Bồ-tát tác nhập cảnh giới pháp tánh, trở thành cái duyên trưởng dưỡng đạo, chẳng phải là cảnh loạn tâm. Kinh Như Huyễn Tam Muội nói : «Nếu lấy đại địa làm trống, Tu-di làm dùi, ở bên tai Tu-bồ-đề, một kiếp đánh trống cũng chẳng thể khiến vi niệm tâm loạn. Vì sao? Vì nhập không định».                

D/2 Dẫn sinh công đức thiền : Đoạn «Bồ-tát này thành tựu… chủng trí». Dẫn thành 6 loại công đức, thứ lớp tăng trưởng.

An trụ các thiền tam mưội chánh thọ, là lìa loạn được định.

Ngộ tất cả pháp, trí tuệ thành tựu, là lìa si dẫn trí.

Đắc tam muội lìa tất cả âm thanh, lấy a-tăng-kỳ môn tam muội làm quyến thuộc, là định tăng nhiếp bạn.   

Trưởng dưỡng đại bi, là trí tăng trưởng bi.

Trong từng niệm có thể được a-tăng-kì tam muội, là định viên mãn liên tục.    

Thành tựu rốt ráo Nhất thiết chủng trí, là đương quả trí mãn.

D/3 Lợi ích chúng sinh thiền : Đoạn «Bồ-tát nghe đây ….». Có ba :

Có thể hoại âm thanh đại ác …, là lợi ích khi lìa loạn.

Khiến tất cả chúng sinh an trụ chánh niệm thanh tịnh, với Nhất thiết trí được bất thối chuyển, là lợi ích khiến li si, là khiến thành tựu nhân.

Thành tựu rốt ráo niết bàn vô dư, là lợi ích khiến đắc quả.


6/ THIỆN HIỆN HẠNH
:[15] Chính là Bát-nhã ba-la-mật. Cũng có bốn môn.

A. Thể tánh: Lấy tuệ pháp trong biệt cảnh làm tánh.

B. Chủng loại:

Luận Duy thức nói có ba : 1/Sinh không tuệ. 2/Pháp không tuệ. 3/Câu không tuệ.    

Luận Du-già cũng có ba : 1/Gia hạnh. 2/Chánh thể. 3/Hậu đắc.

Cũng có khi có bốn : 1/Năng chứng trí. 2/Hậu đắc trí. 3/Lợi tha trí. 4/Câu sinh tuệ.

Văn kinh sau có 10 loại tuệ để hiển vô tận, như kia nên biết.

Trí Luận nói : «Nếu không có Bát-nhã thì ngũ độ như mù. Do đó, tuệ nhãn dẫn các thứ còn lại khiến được thành tựu ba-la-mật».

C. Bí mật : Kinh Thương Chủ nói: «Văn Thù nói : «Ta, không trí. Vì sao? Vì phàm kẻ không có trí tuệ thì chẳng sợ sinh tử cũng chẳng cầu niết-bàn, cùng với chúng sinh mê hoặc đồng chỗ vui thích. Ta đối với sinh tử và Niết-bàn cũng không sợ không cầu. Cùng với chúng sinh mê hoặc một chỗ an trụ, đồng với vui thích đó mà thành tựu. Nên nói ta không có trí tuệ».

D. Giải thích: Trong văn kinh có ba :

D/1 Lặp lại trước để khởi sau : «Bồ-tát này … không thoát». Có 4 câu :

Hai câu đầu là hợp nêu. Vô sở hữu, vì thể của ba nghiệp không. Không chỗ thị hiện, vì dụng của ba nghiệp không.

Hai câu sau là khai thích, là khai mở nhiễm tịnh. Không buộc, vì nhiễm không. Không thoát, vì tịnh không. Câu trước là giải thích thể không. Câu sau khai thích dụng không. Do đây, thể dụng nhiễm tịnh đều không, nên nói Thân khẩu ý nghiệp tịch tĩnh. Muốn y đây khởi quán chiếu, đạt thâm lý nên trước phải nêu lại.         

D/2 Chánh nói về hạnh tướng : Đoạn «Các chỗ thị hiện không sở y … ». Có bốn :

1/ Gia hạnh trí: Các chỗ thị hiện … ly sinh, là truy tướng nhập thật quán.[16]

Ba câu đầu nói về Duy thức vô tướng quán. Vì quán sở thủ, tướng không. Thủy thì vô sở y. Chung thì vô sở trụ. Vì sao biết cảnh không, không có y và trụ? Vì tùy tâm trụ. Đây là nói về Chánh trụ duy thức quán, là y thức mà mất vọng cảnh. Biện Trung Biên Luận nói : «Y thức có sở đắc cảnh, không sở đắc sinh». Cựu Luận nói : «Do y duy thức nên cảnh, nghĩa thể không thành» là ý này vậy.

Vô lượng tâm tánh …, là nói về Thức thể vô sinh quán, là thấy tâm tánh (năng thủ) đồng với tất cả pháp tánh (sở thủ), đồng vô tánh tướng. Đẳng, như chữ đồng. Đây là y không trần mà mất thức. Biện Trung Biên Luận nói : «Y cảnh không sở đắc thức, không sở đắc sinh». Cựu Luận nói : «Vì trần không có nên bản thức chẳng sinh» là ý này vậy.      

Thị hiện vô tướng tướng, là sở thủ không, vì tướng của vô tướng hiện tiền.

Thậm thâm không đáy, là thức năng thủ không, vì thức không là gốc. Thức tận nên không đáy.

Tánh như như, là đồng nói hai cái không, vì tâm như cảnh như đồng một chân tánh. Tuy ở trong như mà không tướng có thể khởi, nên nói lìa nghiệp báo.

Gia hạnh hay khởi chánh chứng, nên nói thiện phương thiện xuất sinh ly sinh. Ly sinh, là chứng vị. Đây là tổng kết rằng những gia hạnh trước có công năng khởi chứng.    

2/ Chánh thể trí : Đoạn «Không sinh không diệty trụ», là tướng tận chứng thật quán. Đây là lý như của tướng cảnh trí. Không bị sinh diệt chi phối, nên nói không sinh không diệt. Mất thì đồng với chân lý nên nói niết-bàn … Đây là nói về bất hữu. Bất hữu tức là bất không (vô), nên nói phi hữu thuyết hữu. Hữu vô đã tuyệt, ngôn từ không khởi, nên nói ngữ ngôn đạo đoạn. Đây là giản trạch ‘chứng’ khác với tỷ quán, là thế trí có y trụ. Trong đó không có chỗ y tựa nên nói lìa tất cả thế gian, không chỗ y trụ.

Đoạn «Trưởng dưỡng …thế gian», là hiển lợi ích của chứng. Có 5 câu :

. Lợi ích tăng thiện : Do chứng chân nên khiến những thiện căn đã khởi trước đây càng tăng trưởng gấp bội, nên nói Trưởng dưỡng thiện căn Bồ-tát đã khởi. Sơ sát-na thuộc vô lậu trí khởi liền thọ huân thành, khiến tăng trưởng ích lợi.

 . Lợi ích đoạn chướng : Thuận với chứng gọi là nhập. Xả vọng gọi là ly. Đoạn chủng phiền não chướng, nên nói không buộc. Diệt chủng sở tri chướng, nên nói không trước.

. Lợi ích chứng chân : Chứng chân lý xưa chưa chứng nên nói nhập pháp môn chân thật.

. Lợi ích siêu vị : Vượt qua thế gian nên nói nhập pháp môn ly thế gian,

. Lợi ích khởi trí : Do việc chứng chân lý này mà khởi trí hậu đắc, phân biệt tất cả pháp thế gian.

3/ Hậu đắc trí : Đoạn «Bồ-tát suy nghĩ …», là y thật khởi tướng thật vô ngại quán. Có hai :

. Dùng lý hiểu sự, phương tiện nghĩ cầu : Đoạn «Bồ-tát suy nghĩ …vô sở y»,

. Lý sự vô ngại, hiển chánh giải như thật : Đoạn «Bồ tát hiểu các pháp…» .

Bồ-tát hiểu các pháp thậm thâm như thế, là tổng.

Sau là biệt. Trong phần biệt có 8 câu:

Hiểu tất cả thế gian tịch diệt, là biết vọng thể không.

Hiểu tất cả diệu pháp thậm thâm của chư Phật, là biết chân lìa tướng.  

Hiểu Phật pháp thế gian pháp đồng, là hiểu nhiễm tịnh song dung, nên không có sai biệt.

Thế gian pháp nhập Phật pháp, là ngay nơi nhiễm mà hằng tịnh.

Phật pháp nhập thế gian pháp, là không nhiễm mà nhiễm.

Phật pháp thế gian pháp mà không tạp loạn, vì nhiễm tịnh môn khác. Vì toàn thể tức là tịnh mà chẳng mất nhiễm. Khởi thể là nhiễm mà không mất tịnh. Đó là nhiễm tịnh không hai mà hai.

Thế gian pháp không hoại Phật pháp, là giải thích nghĩa không tạp loạn. Vì thế pháp hư vọng nên chẳng đợi hoại, chẳng ngại sự tồn tại. Vì không đợi hoại nên chưa từng không là Phật pháp. Vì chẳng ngại sự tồn tại, nên chưa từng lẫn tạp với Phật pháp.    

Vì Phật pháp chân thật nên không thể phá hoại, mà không ngại tùy duyên. Chẳng ngại tùy duyên nên chưa từng không là thế pháp. Không thể phá hoại, nên chưa từng lẫn tạp với thế pháp.  

Cũng có thể giải thích : Phật pháp tuy nhập thế gian mà chẳng bị thế pháp làm hoại. Vì sao? Vì pháp giới chân thật không thể phá hoại.

Hỏi : Nếu vậy sao không nói ‘Thế pháp nhập Phật pháp, thế pháp cũng chẳng hoại’?

Đáp : Vì thế pháp nhập Phật pháp có thể hoại tận, nên chẳng luận. Vì chân vọng chẳng đồng nên như vậy. Sở dĩ lội qua cả nhiễm tịnh như thế, là muốn thường ở thế gian nhiếp hóa mà hằng trụ niết bàn. Dưới, dùng đại bi nhiếp sinh mà không trái với lý quán, là pháp này.

4/ Đại bi nhiếp sinh : Đoạn «An trụ chánh pháp … thanh tịnh», là dùng đại bi tùy tướng nhiếp hóa quán. Do đây, ‘thật’ chính là ‘tướng’, nên duy tướng cũng không lỗi.

1/ Đoạn «An trụ chánh pháp … cứu độ chúng sinh», có 5 câu :

An trú chánh pháp ba đời bình đẳng, là y lý khởi bi.

Cũng không bỏ tâm bồ-đề, là kiến lập chí nhiếp sinh.

Không bỏ tâm giáo hóa chúng sinh, vì thương vật.

Tăng trưởng tâm đại từ đại bi, là tự răn không bỏ chúng sinh.

Đều muốn cứu độ chúng sinh, là đối duyên chánh cứu.

2/ Đoạn «Ta không thành tựu… thanh tịnh», có 5 câu :

Ta không thành tựu chúng sinh thì ai thành tựu, là giáo hóa khiến thành tựu thiện căn.

Ta không điều phục chúng sinh thì ai sẽ điều phục, là điều ly ác nghiệp.

Ta không tịch tĩnh chúng sinh thì ai sẽ tịch tĩnh, là tịch diệt phiền não.

Ta không khiến chúng sinh hoan hỉ thì ai sẽ khiến họ hoan hỉ, là hoan hỉ được nhân thành tựu.

Ta không thanh tịnh chúng sinh thì ai sẽ khiến họ thanh tịnh, là tịnh được quả viên mãn.

3/ Đoạn «Ta do hiểu được… chánh đạo», là dùng lòng thương vậy.

Một câu đầu Ta, do hiểu …, là hiển chỗ hiểu của mình.

Sau, đoạn «Thấy các chúng sinh …», là thương đời khổ.  Có hai :

** Đủ các trọng khổ : Pháp và dụ cùng hợp. Trong phần Pháp : Thấy chúng sinh thọ đại khổ não, là hiện khổ. Hướng đến đường hiểm nguy, là sẽ khổ. Đây là quả khổ. Bị các phiền não buộc ràng, là nhân khổ. Trong phần hợp với Pháp : Ân ái buộc ràng, là khổ nhân. Nơi ngục sinh tử v.v… là khổ quả. Đây là nghĩa của bốn đường ác v.v...

Diêm la vương, theo các Thánh giáo, có 5 thứ :

. Nhiếp thuộc địa ngục : Như Dù-già q.2 nói.

. Nhiếp thuộc quỉ thú : Như Du-già Bồ-tát địa nói. Cũng có kinh văn chưa thấy.

. Không nhiếp thuộc hai thú đó : Như văn kinh ở đây có riêng Diêm la vương.

. Biến hóa làm : Như kinh Quán Phật Tam Muội q.5 và luận Nhị Thập Duy Thức đã nói.

. Bồ-tát làm : Như Du-già q.77 nói[17] : «Diệm ma, gọi là pháp vương. Làm lợi ích hay làm tổn hại, ứng ngôn chỉ làm lợi ích, nên biết là Bồ-tát». Trong kinh Chánh Pháp Niệm cũng nói : «Diêm ma vương vì tội nhân nói kệ rằng : Ông được thân người không tu đạo. Như đến bảo sở tay không về. Ông nay tự làm lại tự nhận. Hô hoán khổ ấy định làm gì?».

Hỏi : Vương này là đoạn trung hữu chúng sinh hay là đoạn bản hữu chúng sinh?

Đáp : Đoạn bản hữu chúng sinh. Vì trung hữu không ở địa ngục.

** Không có cái lạc giải thoát : Trước, nói về hữu chướng. Vì không lìa phiền não nghiệp khổ, là ba chướng. Sau, nói không có giải thoát. Theo văn kinh, có 3 đối :

. Không nhân giải thoát : Ngu si tối là hữu chướng. Không thấy sáng chân thật, là vô trị.

. Không quả giải thoát : Chịu sinh tử vô cùng, là hữu chướng. Không được đạo giải thoát, là vô trị.

. Thành tựu hai phần trước : Luân hồi tám nạn …, là hữu chướng. Không thấy chánh đạo, là vô trị.

Chúng sinh nếu chưa … , là tự răn. Chúng sinh nếu đã có trọng khổ, nếu trước không giáo hóa họ mà tự thành Phật thì không phải là đạo lý.

4/ Đoạn «Ta trước phải giáo hóa … rốt ráo», là chánh nhiếp sinh. Có 3 câu : Thành tựu thiện căn, điều phục ác, khiến giải thoát.     

3/ Hiển ích dụng của hạnh : Đoạn «Khi Bồ-tát trụ ở hạnh này …». Vì hạnh Bát-nhã này thù thắng hơn các hạnh khác, nên các hạnh trước, phần sau đều không có phần lợi ích này.


7/ VÔ TRƯỚC HẠNH
[18]: Vì tâm vô trụ tích tập các thiện căn. Lại, vì bi trí dẫn nhau, khéo không trụ trước, là hạnh Vô trước. 

A. Thể tánh: Vô trước là hạnh, là phương tiện độ. Về sau được trí bi là thể.

B. Chủng loại: Luận Duy Thức nói có 2 loại: 1/Hồi hướng phương tiện. 2/Cứu tế phương tiện. Còn văn kinh sau thì có 10 loại.   

C. Giải thích văn kinh: Có ba. 1/Tự phần hạnh. 2/Thắng tiến hạnh. 3/Thành mãn hạnh.  

C/1 Tự phần hạnh : Tu hạnh vô trước. Có hai : 1/Đại trí hạnh. 2/Đại bi hạnh.  

a. Đại trí hạnh: Đoạn «Bồ-tát này dùng không tà kiến», hiển tự lợi vô trước. Có ba :

a1/ Thấy tịnh không nhiễm: Đoạn «Bồ-tát này dùng tâm… không chấp trước». Có hai :

a1/a Giải thích riêng : Đoạn «Bồ tát này dùng tâm… không trước Phật pháp». Có 14 câu :[19]

. Thành tựu tịnh độ hạnh : 4 câu. Trong từng niệm, là tu không gián đoạn.

Quán sát a-tăng-kỳ thế giới…, là thấy cõi nghiêm tịnh mà không chấp trước.

Đến a-tăng-kỳ Như Lai quốc…, là đến chỗ Phật cúng dường không chấp trước.

Phương tiện hạnh mà vô sở hạnh, là tạo tu xảo vô trước. Vì vô sở hạnh là vô trước vậy.

Tư vô tư pháp trụ, là nghiệp sở thành không chấp trước. Vì là nghiệp thể, diệt để nhập chân gọi là vô tư. Pháp trụ, là không chấp trước.

. Pháp thân hạnh : 10 câu.

3 câu Thấy vô lượng chư Phật …, là thấy Phật bảo không chấp trước.

2 câu kế, là với Pháp bảo cũng không chấp trước. Với các Phật sát…, là xứ nghe pháp. Nghe Phật thuyết pháp, là chánh nghe pháp.

3 câu kế, là với Tăng bảo tâm không chấp trước. Với mười phương giới…, là thấy Tăng xứ. Với Như Lai chúng, là thấy Thanh văn tăng. Với Bồ-tát tăng, là thấy Bồ-tát tăng.

8 câu trên, là ở nơi cảnh Tam bảo tu hạnh vô trước.

2 câu kế, là ở nơi hạnh của tự mình mà tu hạnh vô trước. Nghe pháp hoan hỉ …, là ở trong nhiếp pháp hạnh mà tu. Hành Bồ-tát hạnh…, là ở trong tạo tu chánh hạnh mà tu.        

a1/b Lặp lại và kết luận : Đoạn «Bồ-tát  ma-ha-tát này … chấp trước». Có 2 câu:

Với mỗi chỗ Phật …, là lập lại Tịnh độ hạnh nói trên.

Thấy các Như Lai…, là lập lại Pháp thân hạnh nói trên.

Lấy đó mà trang nghiêm…, là kết để thành tựu trang nghiêm, là dùng các pháp đó trang nghiêm tịnh độ. Kết biệt thành tổng, hiển câu đầu.

a2/ Thấy uế không ghê: Chỉ có một câu Thấy cõi bất tịnh tâm không ghét ác. Vì tịnh pháp thuận cầu dễ chấp trước, khó bỏ, nên ứng vào nhiều môn.[20]

a3/ Giải thích cả hai phần trước: Đoạn «Vì sao?…». Trước là hỏi : Tất cả người thế gian đều thích tịnh ghét uế, Bồ-tát vì sao không như thế? Sau là giải thích. Trong phần giải thích. Trước là đối với câu hỏi mà giải thích chung là Tịch diệt bình đẳng quán các pháp.

Các pháp không cấu không tịnh [21] trở đi, là hiển riêng 6 đối pháp, đều là tương đãi đoạt nhau, đều không có tự tánh nên không có thương ghét.         

b. Đại bi hạnh: Đoạn «Bồ-tát quán pháp tánh …», hiển lợi tha vô trước. Là lặp lại phần trước, vào phần sau. Quán pháp tánh chân thật, là lặp lại phần quán tánh pháp trí, cũng là thuận nhập vào tánh chúng sinh, vì đồng tánh. Cho nên, hóa sinh mà thường không chấp trước.

Sau là chánh hiển tướng, có 7 câu :

Với chúng sinh …, với kẻ sở hóa, tâm không chấp trước.

Thọ trì các pháp …, là ở nơi hóa pháp, tâm không chấp trước.

Không bỏ tâm Bồ-tát…, là với hóa tâm cũng không chấp trước. Vì đại bi đồng với quả, trụ chỗ Phật trụ. 

Với đường ngôn ngữ…, là với hóa giáo, tâm không chấp trước. Vì theo ngôn ngữ từng phương mà có khác, nên nói mọi đường ngôn ngữ.

Với chúng sinh đạo…, là với hóa xứ, tâm không chấp trước. Vì lục đạo v.v… là chỗ chúng sinh ở. Đây cũng là hóa hạnh không chấp trước, vì Nhị thừa v.v… là sở hóa hạnh xứ, nên nói đạo.

Phân biệt các tam muội…, là  sở y khởi hóa không chấp trước. Vì y nơi tam muội mà khởi việc giáo hóa người.

Đi đến vô lượng …, là qua các cõi, không chấp trước.

Các thứ trên đều ở nơi các hạnh và các sự, khiến trí viên chuyển mà không chấp trước.        

C/2 Thắng hiến hạnh : Đoạn «Bồ-tát ở nơi Phật quốc … ». Có ba : 1/Tự thành thắng hạnh. 2/Đại bi nhiếp hóa. 3/Đại trí chiếu lý, hiển vô trước.

a. Tự thành thắng hạnh : Có 9 câu :

Bồ-tát ma-ha-tát ở nơi các Phật quốc…, là ngộ thật giáo. Vi ở nơi Phật quốc, dùng tâm vô trước lãnh hội giáo lý tột cùng mà Phật đã thuyết, nên  nói thật giáo.  

Với đạo vô thượng…, là tìm giáo được yếu chỉ, nên đối với đạo được vô ngại.

Với Phật chánh giáo…, là y giáo lập hạnh, nên nói đã được an lập.

Đầy đủ hạnh Bồ-tát, là nhân nơi tu mà hạnh thành.

An trụ tâm Bồ-tát, là hạnh thành bất động.

Thành tựu giải thoát…, là y tâm thành đức.

Không niệm không trước…, là đức thành ly tướng.

Trụ Bồ-tát tịnh đạo, là lìa tướng nhập thể.

Thọ chân thật ký, là chứng thành nhiếp quả. Nghĩa thọ ký, phẩm Ly Thế Gian sau nói đầy đủ.

b. Đại bi nhiếp hóa: Đoạn «Được thọ ký rồi …đến vị lai». Có hai : 1/Niệm chúng sinh không có thiện ác. 2/Khởi bi tâm tế độ.

b1/ Niệm chúng sinh không thiện có ác : Đoạn «Phàm phu ngu si … các loại khổ». Có hai :

b1/a Do si ái lưu chuyển sinh tử : Vì chẳng biết ‘Khổ’, không thấy ‘Diệt’. Ám độn, không tin chẳng đoạn ‘Tập’. Tâm không chân thật thì xa lìa đạo. Đây là lỗi ngu si nói trên. Thường hành nhiễm trước, là lỗi ái nói trên. Lưu chuyển, là do si ái tích tập nghiệp nên quả khổ tương tục.

b1/b Do tà kiến kiêu mạn nên thọ các loại khổ : Có hai :

Không thấy chư Phật…, do chướng nên không gặp người chánh pháp chánh, nên khởi tà kiến.

Không cầu Điều…, là do kiêu mạn nên hủy báng người chánh, pháp chánh, nhập ma tà cảnh. Trong đó, một là không cầu thiện hữu. Hai, nghe pháp ‘không’ sinh sợ, là không thích nghe chánh pháp. Ba, không chánh tư duy nên hủy báng chánh pháp. Bốn, xả bỏ chánh đạo…, là tu hạnh điên đảo. Sau, nói do tà mạn này mà chấp trước hữu, ái, khổ.    

b2/ Khởi bi tâm tế độ: Đoạn «Lúc ấy Bồ-tát…đến vị lai». Trước, là đại bi tăng trưởng. Sau, là đại bi tùy toại.

b2/1 Đại bi tăng trưởng : Đoạn «Lúc ấy Bồ-tát…», là kết luận đại bi tăng trưởng, không chấp trước thiện nghiệp của mình.

b2/2 Đại bi thuận theo : Đoạn «Ta sẽ vì chúng sinh… ». Có ba : 1/ Khởi tâm giáo hóa. 2/Hiển vô trước. 3/Thành hóa hạnh. Đoạn "Ta sẽ vì chúng sinh…" , là khởi tâm giáo hóa. Trước, là nêu ý chung : Vì nhiều chúng sinh mà trải qua nhiều kiếp không hề ly cách bằng đầu lông. Dùng đại bi tâm thuận theo chúng sinh, là như nghé theo mẹ v.v... Sau là biệt hiển lòng bi thâm sâu, là nhiều chỗ, nhiều thời giáo hóa một chúng sinh. Với nhiều chúng sinh cũng như vậy. Niệm niệm thứ lớp chưa từng đoạn tuyệt, là muốn nói tu không gián đoạn. Nơi mỗi đầu lông tu tập …, là khởi hóa hạnh, là tu thời gian lâu xa.          

c. Đại trí chiếu lý, hiển vô trước: Đoạn «Chẳng trước thân…. như thật thế». Là nói về lý do vô trước.

10 câu đầu chân biện về vô trước : Đoạn «Không trước thân… pháp giới».    

Đoạn «Vì sao?...», là giải thích lý do thành tựu. Trong phần giải thích này, trước là hỏi vì sao Bồ-tát tất cả chẳng chấp trước? Sau, là giải thích, ứng vào 8 ví dụ mà hiển.

Tổng giải thích: Vì quán tất cả pháp giới duyên khởi, phi hữu là hữu, giống như huyễn, nên không chấp trước.

Sau là thứ lớp phá nghi.

* Nghi : Huyễn lửa ở thế gian chẳng thành dụng cháy, Phật nay xuất thế rộng làm lợi ích chúng sinh, há đồng đó ư?
* Giải thích : Như điện (ánh chớp) cũng có dụng soi tối v.v… há là thật có? Điện có 3 nghĩa :

. Chợt có.

. Soi tối.

. Chóng diệt.

Phật quả có 3 nghĩa :

. Tịch khởi dụng, là nghĩa chợt có.

. Dụng hằng tịch, là nghĩa chóng diệt.

. Tịch dụng vô ngại, làm rộng lợi ích chúng sinh, là nghĩa soi tối.

Đây là «Với Phật cũng không chấp trước» nói trên.

* Nghi : Nếu Phật như điện chớp, vì sao Bồ-tát khởi hạnh vãng cầu, nhân đã không hư dối, quả há không thật?
* Giải thích : Bồ-tát hạnh như mộng, an đắc là thật.
Mộng
có 3 nghĩa :

. Thể không.

. Hiện thật, khiến người mộng thấy có.

. Hữu dụng, vì cùng với giác (tỉnh) làm duyên.

Như trong mộng, nhân chạy nên kinh sợ. Tỉnh, nhìn lại không đến không chạy, nhìn lại tự thân vốn chẳng động. Bồ-tát chưa thành Phật, với đại mộng của tự tâm chưa ngộ rốt ráo, cho nên tu hành cũng có 3 nghĩa :

. Chứng lý nên không.

. Vô minh chưa hết nên thật.

. Thành tựu Phật quả nên có dụng.

Vì trong mộng vô minh cần dũng nhiều kiếp, khoát nhiên đại ngộ, Phật quả hiện tiền. Nhìn lại trong mộng đều không có sở tác, quay thuận bản tánh đầy đủ công đức y nhiên. Như phần mộng ở Bát địa với thí dụ qua sông nói sau. Do đây, ở văn trên giải thích «Với Bồ-tát hạnh không có chấp trước».

* Nghi : Nếu Bồ-tát hạnh như mộng, vô sở hữu, vì sao kinh nói đây là Bồ-tát hạnh, đây là hạnh Nhị thừa?
* Giải thích : Pháp nghe được như hưởng.
Hưởng, có 3 nghĩa :

. Do âm thanh, hang động v.v… duyên thành.

. Không có gốc.

. Ngôn thuyên.

Thánh giáo cũng có 3 nghĩa :

. Cơ cảm Phật ứng.

. Đương thể không gốc.

. Xứng căn tuyên thị.

Cho nên, giáo này là không thuyết mà thuyết. Các thứ này giải thích phần tự hạnh không chấp trước nói trên.

* Nghi : Hướng thuyết, quả hạnh v.v… có thể hẹp, thì không. Thế giới sự rộng thì nên là thật?
* Giải thích : Tất cả thế giới như hóa. Hóa, có 3 nghĩa : 

. Thần lực đãi khởi.

. Phi chúng sinh số.

. Hữu chúng sinh dụng.

Thế giới cũng đồng đó :

. Do tự thức biến khởi.

. Tánh tướng không thật.

. Chứa nhiều hữu tình.

Đây là phần quán tịnh uế, tâm không chấp trước nói trên.  

* Nghi : Nếu quốc độ như hóa không có, vì sao nhân vào đó có thiện ác sai biệt?
* Giải thích : Nghiệp báo khởi như hóa thân ma-nô-ma. Người xưa giải thích : Đây gọi là thân trùng hóa, vì trên hóa lại khởi hóa. Cho nên, nhân quả đều là hóa. Nay, lại hỏi Tam tạng sư thì ma-nô-ma, gọi là «Ý sinh», cũng gọi là «Ý thành». Chính là Ý sinh thân. Thân đó lại khởi hóa, nên nói hóa thân. Đây cũng có 3 nghĩa :

. Lưỡng hóa đều phi hữu.

. Lưỡng tướng hiện y nhiên.

. Có nhân quả sinh dụng báo trả.

Nghiệp quả cũng có 3 nghĩa đồng với đó, có thể tự biết. Cho nên, ngay nơi hữu là bất hữu.

* Nghi : Nếu nghiệp quả đều không thì báo nghiệp của chúng sinh do đâu sai biệt?
* Giải thích : Chúng sinh … do tâm họa. Họa tranh, có 3 nghĩa :

. Bằng phẳng, vì đồng bức tường.

. Có cao thấp, vì họa công không mất.

. Vô ngại, vì bằng và cao không ngại nhau.

Chúng sinh cũng vậy. Nơi cùng bức tường tâm chân như, họa thành tranh tượng :

. Không, vì lặng thì đồng với chân như.

. Hữu, vì nghiệp quả không mất, tâm tùy huân biến.

. Vô ngại, vì không và hữu vô ngại.

Đó là toàn không tướng, tướng dường hiển mà vô sở hữu. Cho nên nhiếp hóa chẳng bỏ. Hằng vô sở hóa, cho nên không chấp trước.

* Nghi : Nếu chúng sinh như vậy, vì sao Bồ-tát phó cơ thuyết pháp?
* Giải thích : Pháp được thuyết như thật tế, là ngôn thuyết này thường đồng thật tế, không phải vô ngôn mới đồng đó.

Bốn môn sau này giải thích nghĩa vô trước trong hạnh lợi tha nói trên.  

C/3 Thành mãn hạnh : Đoạn «Trong một niệm… », là nói về người không chấp trước. Trong đó có ba : 1/Tự hạnh. 2/Dạy người. 3/Giải thích thành. 

a. Tự hạnh: Có ba.

a/1 Hạnh rộng : Đoạn «Trong một niệm, đầy khắp … như hư không». Một niệm là thời chóng. Đầy khắp mười phương, là xứ rộng. Tu Bồ-tát hạnh rộng lớn, là hạnh đại. Như pháp giới, là hiển hạnh thù thắng. Như hư không, là hiển hạnh rộng lớn. Do soi thấy pháp tánh mà thành tựu hạnh xứng tánh này.

a/2 Giải rộng : Trong một niệm đều biết…, là hiểu biết phương tiện quyết định của chư Phật chứng lý có được.

a/3 Giải thích thành hai phần trên : Liễu tri tâm tướng … , là để hiển vô trước. Do liễu tri tự tâm của mình nhanh chóng, nên trong một niệm có thể trùm khắp mười phương thế giới, giải hạnh lập tức thành tựu, như thành tựu trước. Cũng biết, tâm tánh mình tùy duyên mà khởi, tức cũng không khởi, lý sự vô ngại, chẳng nhất định trụ, nên nói hồi chuyển nhanh chóng. Do đây nên hay xứng pháp mà khởi đại hạnh.

b. Dạy người: Đoạn «Bồ-tát quán sát…». Trong phần đại bi lợi tha này, trước là hạnh. Sau là vô trước.

b/1 Hạnh : Có 5 câu :

Bồ-tát quán sát …, là thấy các việc thù thắng mà sinh hoan hỉ.

Khởi đại bi …, là tự và tha không ưu não.

Kẻ chưa thành thục…, là nêu ý giáo hóa của mình : Thành tựu kẻ thiện, điều phục người ác.

Chóng ly thế gian …, là khởi hóa hạnh của mình.

Nếu nghe âm thanh của …, là ở nơi các hữu chánh giáo hóa. Trong đó :

… Trong quốc độ ở các phương, là ngôn âm không đồng.

Chúng sinh nghiệp báo, là tạo nghiệp đều khác.

Phép tắc ở các phương, gọi là thi thiết.

Nhiếp chúng sinh sai biệt, nên nói hòa hợp.

Thú hướng không đồng, nên nói lưu chuyển.

Chỗ tu đều khác, gọi là chư hành.

Chúng sinh cảnh giới, là phần tề sai biệt, cũng là sở duyên.

Chúng sinh các địa, là đắc vị cũng khác. 

Chúng sinh hưng khởi, là hướng quả không đồng.

Ta sẽ nương lực …, là khởi nguyện chánh hóa.

b/2 Vô trước : Cho đến không khởi một niệm nhiễm trước.

c. Giải thích thành: Vì sao? … có thể tự hiểu.


8/ TÔN TRỌNG HẠNH
[22] : Chia làm 5 môn.

A. Giải thích tên: Nguyện hạnh của Bồ-tát sâu dày cao, thắng, đáng quí, nên lấy đó lập tên.

B. Thể tánh : Lấy đại nguyện làm hạnh thể, nhưng là Hậu đắc trí. Du-già q.49 nói : «Hy cầu hậu địa trí tánh thù thắng, gọi là Nguyện ba-la-mật-đa. Lấy ba pháp tín, dục và thắng giải làm tánh». Luận khởi Tín nói…

C. Chủng loại: Luận Duy Thức nói có 2 loại: 1/Nguyện cầu bồ-đề. 2/Nguyện lợi lạc người. Có khi là Tứ hoằng, Ngũ nguyện như luận Du-già nói. Có khi là 10 nguyện như văn kinh sau nói.

D. Công năng : Do đại nguyện này thông khắp các hạnh. Do tư lương khiến cao thắng. Từ công đức đó, gọi là Tôn trọng hạnh.

E. Giải thích văn kinh: Trong phần nói về tướng, có hai : Trước, là Tự phần hạnh. Sau, là Thắng tiến hạnh.

E/1 Tự phần hạnh : Có ba :

a. Hạnh khởi sở y : Là các thiện căn. Thiện, là nghĩa thuận lý. Căn, là nghĩa tăng thượng, sinh trưởng. Trong đó, có 9 câu :

Thành tựu thiện căn tôn trọng, là câu tổng.

8 câu còn lại là biệt.

Thiện căn bất hoại, là khởi hạnh tâm kiên.

Thiện căn tối thắng, là cao vượt tình biểu.

Thiện căn bất tư nghì, là hạnh thâm khó lường.

Thiện căn vô tận, là sinh đức rộng và nhiều.

Thiện căn bất thối, là chứng tịch khó động.

Thiện căn vô tỉ, là hạnh diệu không có đối phương.

Thiện căn tịch tĩnh, là tâm thủ xả dừng.

Thiện căn tất cả Phật pháp, là hạnh rộng đồng Phật.

Đầy đủ các nghĩa trên, nên gọi là Tôn trọng hạnh.

b. Chánh khởi hạnh tướng : Đoạn «Bồ-tát này khi tu tập… Đại thừa» Có bốn :

Nội tâm kiên cố : Là khởi hai niệm nguyện hạnh : Đoạn «Tâm thường yêu thích …»

Ngoại duyên thù thắng : Hai duyên nghịch thuận : «Tất cả các ma không thể …» Ma, tuy nghịch duyên, cũng có thể thành hạnh.

Hạnh thành tôn trọng : «Thường hành các hạnh …» Là hai hạnh tịnh và khổ.

Nguyện thành bất thối : Được hoằng nguyện bất thối …

c. Hạnh thành lợi ích : Đoạn «Bồ-tát này an trụ… ». Trong đó, An trụ Tôn trọng hạnh rồi, là kết lại Tự phần hạnh đã thành tựu. Trong từng niệm …, là nói chính về hai lợi.

c/1 Tự lợi : Bồ-tát này an trụ …, là với ngu thì chuyển lìa, với đức thì chuyển tăng. Lý thật thì tăng chung tất cả hạnh nguyện. Ứng vào nguyện mà hiển, vì đây là địa vị nguyện độ.

c/2 Lợi tha : Nếu có chúng sinh …, là Bồ-tát này, do bên trong đủ các thật đức, khiến bên ngoài thấy nghe đều không hư dối.

E/2 Thắng tiến hạnh : Đoạn «Bồ-tát này… ». Có ba : 1/Tu thành tâm hạnh tôn trọng. 2/Y tâm tu thành tuệ hạnh tôn trọng. 3/Y tuệ tu thành bi hạnh tôn trọng.

a. Tu thành tâm hạnh tôn trọng: Có ba : 1/Tu tâm hạnh vô ngại. 2/Tu tâm hạnh vô tận. 3/Song kết hai hạnh.

a1/ Tu tâm hạnh vô ngại: Đoạn «Bồ-tát này quán sát… hai tướng». Có hai :

1/ Y lý khởi hóa hiển hạnh vô ngại :

«Ví như nước sông … không ưu não», là pháp và dụ hợp lại.

Hỏi : Đã chẳng hướng sinh tử, chẳng hướng niết bàn, nên nói chẳng trụ. Giữa dòng hai bờ đó, sao chỉ nói không trụ giữa dòng sinh tử ?

Đáp : Pháp sư Viễn giải thích : Trước chẳng hướng hai chỗ là lìa hữu. Chẳng trụ ở giữa là lìa vô. Vì sinh tử không có chỗ nơi, nên nói dứt giữa dòng. Không trụ cái không này, nên nói không trụ giữa dòng.

Đây thì giải thích : Như lưu thủy ở bờ phía đông thì không ở bờ phía nam, cũng không ở bờ phía bắc, cũng có thể nói là không dứt giữa dòng bờ phía bắc, vì «giữa» không có thể riêng, chỉ ứng với bờ mà phân biệt. Như vậy, với bờ phía nam cũng có thể. Vì sao không nói giữa dòng niết bàn? Vì chúng sinh được độ chỉ ở bờ sinh tử, nên chỉ nghiêng về bờ đó mà luận.

Hỏi : Vì sao lìa bờ không riêng có giữa?

Đáp : Như với tất cả chúng sinh, lấy Như Lai tạng như nước làm bờ kia, lấy vọng tâm như sóng làm bờ này. Vì ngay nơi sóng là nước không động, nên bờ kia không phải là bờ này. Vì ngay nơi nước là sóng không tĩnh, nên bờ này không phải là bờ kia. Do nghĩa này, nên cả hai bờ đều tồn tại. Vì nước không động tức là sóng, nên bờ kia không phải là bờ kia. Vì sóng không tĩnh là nước, nên bờ này không phải là bờ này. Không phải bờ này, không phải bờ kia thì nói là giữa dòng. Cho nên, Bồ-tát ở giữa, chưa từng chẳng là Phàm Tiểu tại bờ, chưa từng chẳng là giữa. Y nghĩa đó, nên Bồ-tát là năng hóa mà cuối cùng thì chẳng phải năng. Chúng sinh là sở hóa mà cuối cùng cũng không có hóa. Vì trung và biên tương tức, năng và sở viên dung vô ngại. Hãy tư duy về điều đó.         

2/ Hiển lý sự viên dung là hạnh vô ngại : Đoạn : «Với chúng sinh số … không có hai». Có hai cách giải thích : 1/Ứng vào tướng. 2/Ngay nơi thật.

1/ Ứng vào tướng : Với chúng sinh số, là câu tổng thông tất cả. Tâm không chấp trước, là biệt hiển. Trong đó, trước là trực biện, sau là giải thích.

. Trong phần trực biện : Có 10 câu thành 5 đối :

Không lìa một chúng sinh…, trên nói «vô trước» thì không phải chỉ vô trước với một chúng sinh, còn lại đều chấp trước. Cũng không phải nhiều thì lìa mà một thì trước. Vì tất cả đều chẳng chấp trước.

Chúng sinh giới chẳng tăng …, là lợi ích do tu thiện, chẳng tăng[23]; Giáo hóa khiến đoạn ác, chẳng giảm. Đây là hướng vào nhân vị chưa thành quả mà thuyết.

Chúng sinh giới chẳng sinh …, là thiện mãn quả khởi, chẳng sinh ; Hoặc chướng hết hẳn, chẳng diệt. Lại, công đức quả mãn, chẳng sinh ; Trụ đại niết bàn, chẳng diệt. Đây là ứng vào đầu thành quả mà nói.

Chúng sinh giới chẳng tận…, là dù đều thành quả, sinh giới chẳng tận, quả vị chẳng trưởng. Đây là ứng với sau thành quả mà nói.

Chúng sinh giới chẳng hư…, trên tuy nói không tăng giảm v.v… nhưng hóa sự thành ích đó không hư dối. Hóa sự tuy không hư dối song chẳng trái với trước mà nói, nên nói không hai. Đây đều là kết trước.

. Trong phần giải thích sau : Cũng có hai : Vì sao …, là hỏi. Sau, giải thích.

Hỏi : Hiện tại giáo hóa chúng sinh thấy có tăng có giảm, sao nói không hai?

Giải thích : Vì sinh giới đồng pháp giới, nên không tăng, giảm, sinh, diệt v.v… Không chỗ y trước, là giải thích việc chẳng chấp trước một, nhiều v.v… nói trên.

Hỏi : Nếu đồng pháp giới há có thể không hai?

Giải thích : Vì pháp giới không có hai tướng nên khiến chúng sinh giới cũng không tăng giảm v.v… không hai.   

2/ Ngay nơi thật :

Với chúng sinh số … , là hiển tự tâm của Bồ-tát vô nhiễm. Vì nếu có trí chấp trước thì không thể soi chiếu pháp vô ngại này.

. Trong phần trực biện :   

«Không lìa một chúng sinh …chẳng hai», là hiển tướng vô ngại. 5 đối phân làm ba :

. Hai đối đầu thành một, là hội sự khiến viên dung, một và nhiều vô ngại. Đối trước là nêu, đối sau giải thích. Từ trước giống như từ chấp nắm. Là ở nơi một chúng sinh chấp nhiều chúng sinh, với một chẳng tăng, với nhiều chẳng giảm. Ngược lại, với nhiều chúng sinh cũng như vậy. Chúng sinh giới, là Như Lai tạng. Vì tánh thông tướng dung, nên được ‘sự tùy lý’ mà vô ngại.

. Hai đối kế thành một, là sự đã đồng lý, khởi và tận vô ngại. Đối trước cũng nêu, đối sau giải thích.

. Một đối sau là song kết hai phần trước. Là nói lý sự vô ngại. Đó là đồng chân lý mà không mất sự, nên nói chẳng hư. Hiện sự tướng mà tức là chân, nên nói không hai.

. Trong phần giải thích : Trước, giải thích : Sự đồng với lý. Sau, giải thích : Dùng lý nhiếp sự.

Chẳng tăng chẳng giảm, kinh nói : «Chúng sinh giới và pháp giới không hai không khác, chính là pháp thân do mê hoặc nên lưu chuyển năm đường, gọi là chúng sinh». Cũng nói : «Pháp thân là chúng sinh. Chúng sinh là pháp thân. Chúng sinh pháp thân nghĩa một mà danh khác». Cũng nói : «Nếu có người nói chúng sinh giới và pháp giới có hai có khác, ta nói người ấy là Nhất- xiển-đề».            

a/2 Tu tâm hạnh vô tận : Đoạn «Bồ-tát như vậy…không thể tận», là y nơi tâm vô tận tu đức vô tận. Trong đó có hai : Trước là trực hiển. Sau, giải thích thành.

1/ Trực hiển : Có hai : Trước là y lý khởi hạnh. Sau, thắng đức tự nghiêm.

…Thanh tịnh diệu tướng… , là hiển phúc thù thắng.

Khéo hay phân biệt …, là hiển tuệ thâm sâu.

Vì soi thấu mé pháp nguồn, nên nói đến bờ kia.

Đều phân biệt biết …, là ngoại hóa ứng khắp : Hiện thân khắp cả Phật độ, là thân nghiệp hiện khắp. Với các Phật độ …, là ý nghiệp không nhiễm. Phân biệt nghĩa …, là ngữ nghiệp rộng thuyết.

2/ Giải thích thành : Trong phần pháp và dụ hợp thuyết, với phần pháp thì tuy ở nơi tất cả pháp lìa các dục mà không đoạn con đường tự hạnh, không bỏ hạnh hóa tha, cho nên y tịch khởi hạnh, hạnh đức vô tận, khiến đức tướng của hai lợi thù thắng. Công đức vô tận, là đức rộng. Nhập tịnh pháp giới, là chứng sâu.

Trong phần hợp, hai lợi có thể tự biết.      

a/3 Song kết hai hạnh : Đoạn «Mà Bồ-tát …», là dung hai tâm trước thành một hạnh, cho nên hình đoạt hai tướng đều mất. Trong đó có 10 câu thành 5 đối :

. Phi cứu cánh …, là ứng vào hạnh tu. Vì cứu cánh, là tâm hạnh vô ngại. Vì nhập lý ngưng cầu nên bất cứu cánh. Là tâm hạnh vô ngại, vì sinh đức vô cùng. Vì sinh đức là nhập lý, nhập lý hằng sinh đức, nên cả hai đều không.  

. Phi lìa thủ… , là ứng vào đoạn hoặc. Vì soi thấy hoặc tánh nó không, không thể đoạn lìa. Dị bản mạt chiếu, nên phi bất lìa thủ.

. Phi y tựa…, là ứng vào chứng lý. Vì lý vô tướng, nên phi y tựa, do chiếu lý không thể y tựa đó, khiến trí viên minh phi bất y tựa.

. Phi thế gian…, là ứng vào sở thành. Vì khi chứng lý thì ứng với nhiễm không, không thể xả, nên phi thế gian. Tịnh, thì phi tạp hữu nên phi Phật pháp. Cũng không có nhiễm đáng chán, không có tịnh đáng vui.

. Phi phàm phu …, là ứng vào vị không phải phàm Tiểu, vì đắc quả là tứ quả Nhị thừa…   

b. Y tâm tu thành tuệ hạnh tôn trọng [24]: Đoạn «Bồ-tát như vậy thành tựu… ».

. Bồ-tát như vậy thành tựu …, là lặp lại trước, khởi sau. Vì thành tựu tâm tôn trọng là lặp lại tâm nói trên.

. Tu tập Bồ-tát hạnh, là y trước tu tập hạnh trí tuệ. Có hai : 1/Trí chiếu hạnh nhập lý trí. 2/Trí lý hạnh song dung.  

1/ Trí ‘Chiếu hạnh nhập lý’ :

1/a Hóa hạnh không dạy [25] :

. Đoạn «Không dạy Thanh văn… dạy tịnh», là chánh hiển. Có 10 câu thành 5 đối. Đã hiển rõ, có thể tự hiểu.

. Đoạn «Vì sao… thối chuyển», là giải thích thành. Không thọ không chuyển, là không chánh pháp có thể lãnh thọ, không tà hoặc có thể chuyển diệt. Cũng không nạp các duyên khác nên không thọ. Chánh hạnh kiên trụ nên không chuyển. Trong 5 đối đó, ở nơi pháp Nhị thừa v.v…mà có thể không thọ, nơi chánh lý «không dạy» mà có thể không chuyển. Xứng lý khởi hạnh mà không thối nghỉ, nên nói không có thối chuyển.

 1/b Tự hạnh vô niệm : Đoạn «Khi hành pháp tịch diệt… ». Có hai :

Đoạn «Khi hành pháp…các ba-la-mật», là chánh hiển. Khi hành pháp …, là lặp lại trước. Không sinh niệm…, là chánh hiển vô niệm. Đây đồng với Bát địa vô công dụng hạnh, nên vô niệm. Không bị 10 pháp làm động niệm, là ba thời, ba khoa và ba vị. Nội, là chánh báo. Ngoại, là y báo. Nội ngoại, là đủ cả hai. Cũng có thể là ba thứ căn, cảnh và thức. Một câu sau Tất cả đại nguyện các ba-la-mật, là ngay nơi vị mà kết. Vì trong vị này tuy tu đại nguyện mà cũng vô niệm. 

Đoạn «Vì sao? Vì trong… », là giải thích thành. Có hai:

Trước, là giải thích vì sao vô niệm? Vì liễu đạt các pháp bình đẳng, trong đó không có trí hạnh, mà năng thú hướng sở duyên sở thành,[26] nên vô niệm.

Sau, giải thích vì sao không thú hướng? Vì năng hướng và sở hướng bất nhị, nên bất nhị cũng lìa. Cho nên nói không bất nhị. Đây cũng là giải thích trước mà khởi sau. Vì lý hạnh bất nhị là giải thích phần trước. Tuy hợp mà không hai, năng sở y nhiên, nên nói không bất nhị. Đây là khởi văn kinh sau.          

2/ Trí ‘Lý hạnh song dung’: Đoạn «Ví như hư không… ». Có hai : Trước là nói chính về lý hạnh vô ngại. Sau, hiển công thành đức lập. 

2/a Lý hạnh vô ngại : Đoạn «Ví như hư không… bình đẳng quán pháp ». Có hai :

. Trước, là pháp và dụ đề khởi. Không có sai biệt, là hiển hạnh đồng với lý thì hạnh tướng mất. Phi bất thành Đẳng…, là hiển lý đồng với hạnh, hạnh công tồn tại. Hai thứ đó là một hạnh. Theo phần ví dụ, không phải không có cái hư không không có sai biệt. Phi, nghĩa là có các vật khác. Đó là Phi bất thành Đẳng chánh giác không có sai biệt trong vạn pháp. Phi, nghĩa là : Không sai biệt thì ứng với lý. Thành Đẳng chánh giác, là ứng với hạnh. Đây là lấy cái ‘không thành’ làm cái ‘thành’. Tư duy thì hiểu.

. Sau, là giải thích : Trước, là giải thích hạnh của không hạnh. Sau, là giải thích hạnh tức không hạnh. Trước, là nói về lý không trái hạnh, hạnh y vào lý mà thành ‘công’ . Sau, là hạnh chẳng trái lý, lý mất hạnh mà qui tịch.

Giờ giải thích nghĩa đầu : Hạnh nếu y vào lý thì tuy là vạn hạnh mà hằng tịch. Đây là hạnh của Bát địa. Tối chân thật …, là nói chính về chân lý chẳng trái chánh hạnh. Sau, là hiển ngay nơi lý là hạnh tướng. Hay thị hiện …, là hạnh tự lợi. Điều phục chúng sinh …, là hạnh lợi tha. Không hoại nhân quả, là kết hai hạnh. Vì không phá tồn, cũng chẳng đợi hoại.

Nghĩa sau, không trái tịch diệt…, là hạnh chẳng trái lý. Có thể tự hiểu.   

2/b Công thành đức lập : Đoạn «Bồ-tát này… ». Có hai :

. Với Phật thì năng đồng : Cùng ba đời chư Phật đồng…, là ba đời Như Lai đồng thành tựu hạnh vô ngại này, nay cũng được như vậy nên đồng. Đây là câu tổng. Sau là biệt : Trước, là hiển nội bản giác, nên nói không đoạn Phật tánh. Hạnh tuy tức lý mà tạo tu hằng khởi, nên nói không hoại chánh pháp. Cho nên đồng với Phật.

. Với pháp thì năng hưng : Chánh pháp hưng giáng, là câu tổng. Biện tài vô tận…, là các câu biệt. Có ba : Nơi các pháp tâm không chấp trước, là biện tài vô nhiễm của hưng pháp. An trụ…, là trí vô úy của hưng pháp. Không bỏ Phật trụ…, là hạnh vô trước.  

c. Y tuệ tu thành bi hạnh tôn trọng: Đoạn «Bồ tát như vậy thành tựu…».

Bồ tát như vậy thành…, là nhắc lại trước để khởi sau, là nhắc lại phần trí tuệ sâu xa đã thành tựu nói trên. Tu Bồ-tát hạnh, là y tuệ đó tu các hạnh đại bi.

Chánh hiển có hai :

1/ Tổng nêu ý bi hạnh : Đoạn «Khiến tất cả… chư Phật». Trước, giáo hóa khiến ra khỏi chướng, là giáo hóa thành. Sau, giáo hóa khiến trụ đạo. Cũng có thể hiểu : Trước, khiến ra khỏi ác nạn, được lợi ích của Trời Người. Sau, khiến ra khỏi sinh tử, được lợi ích của giải thoát.

2/ Dùng sự khảo tâm : Đoạn «Giáo hóa vậy rồi… », là hiển thành tựu bi hạnh. Có hai :

. Tâm không có dị cầu : Đoạn «Nghĩ như vầy…». Trước là chân biện. Sau, là giải thích.

Tất cả chúng sinh …, là người ác.  Dù có thiện tri thức…, là người thiện. Nghĩa là, nếu người ác đó đều có thiện hữu minh tuệ đầy khắp thế gian, ta trọn chẳng vì danh lợi v.v…, nên cùng giáo hóa, là tu. Cũng có thể giải thích : Bồ-tát nhất định không vì người ác và tà kiến mà xả bỏ việc giáo hóa, vì họ chẳng biết ân, chẳng được danh lợi. Cũng không vì người thiện minh tuệ mà nhiếp hóa, vì họ biết ân và được danh lợi. Nên nói: «Ta không vì người thiện được chỗ danh lợi, mà tu Bồ-tát hạnh». Sau là giải thích tâm không có dị cầu : Một mảnh gai, là phần cực nhỏ trong lợi. Một lời yêu thương, là phần cực nhỏ trong danh. Nhỏ còn chẳng vì, huống là nhiều.         

. Chỉ vì lợi ích chúng sinh : Đoạn «Chỉ muốn… ». Trước, là chân biện. Sau, giải thích.

Điều phục chúng sinh, vì người mà điều phục là thọ trì tam học.

Thanh tịnh tất cả chúng sinh, là khiến đoạn hoặc.

Độ thoát tất cả chúng sinh, là khiến được quả.

Trong phần giải thích, trước là hỏi vì sao không cầu cái an cho mình, chỉ vì lợi ích chúng sinh? Sau giải thích: Vì tất cả pháp chư Phật như vậy, là học Phật loại kỷ.[27] Sau nữa, là hiển mình đồng với Phật. Trong đó : Không cầu lợi dưỡng …, là hóa tâm đồng. Muốn khiến rốt ráo…, là hóa ích đồng. 


9/ THIỆN PHÁP HẠNH
[28] : Chia làm 7 môn.

A. Giải thích tên: Vì được thiện xảo trí lực thuyết pháp vì căn cơ, nên lấy đó lập tên.

B. Lai ý : Đại nguyện dần dần thanh tịnh tăng thành lực độ.

C. Thể tánh : Theo Nhiếp Luận, lấy Hậu đắc trí đại bi vô biên trí năng làm thể.

D. Nghiệp dụng: Theo Nhiếp Luận, có hai loại :

1/ Tư trạch lực : Hay điều phục tất cả chánh hạnh v.v… đối trị chướng, khiến không khởi.

2/  Tu tập lực : Hay khiến tất cả thiện hạnh kiên cố quyết định.  

E. Chủng loại: Có khi có 2 lực như vừa nói. Cũng có khi có 10 loại như văn kinh trước và sau nói.

F. Sai biệt: Vị này đồng với Cửu địa vô ngại biện lực. Ứng vào Viên giáo, vị này mãn hậu liền thành Phật, không đợi các vị còn lại. Trong văn kinh đã hiển, có thể tự hiểu.

G. Giải thích văn kinh: Có bốn : 1/Nêu. 2/Biện. 3/Kết. 4/Thán.

G/1 Nêu: Câu Thế nào là …

G/2 Biện về tướng : Có hai : 1/Tự phần hạnh. 2/Thắng tiến hạnh.

a. Tự phần hạnh: Có hai : Tổng hiển và biệt hiển.

a1/ Tổng hiển tướng của nó : Đoạn «Tạo pháp hạnh… chẳng mất». Có 3 câu: 

. Dùng pháp lợi ích căn cơ : Hay dùng tịnh pháp trừ sinh thục não,[29] gọi là pháp thanh lương.

. Hoằng dương chánh pháp : Dùng trì biện hiển rộng chánh pháp, gọi là thủ hộ.

. Lợi ích của việc hoằng pháp : Dùng thập thân, nhiều kiếp tuyên hóa chẳng dứt, gọi là Phật chủng chẳng mất.   

Các thứ trên cũng là lược hiển tên Thiện pháp hạnh.

a2/ Biệt hiển : Có bốn : 1/Trì thành tựu. 2/Thuyết thành tựu. 3/Hỏi đáp thành tựu. 4/ Ngữ ích thành tựu [30]

a2/1. Trì thành tựu : Do trì pháp chẳng quên mới có thể diễn thuyết, nên trước nói về nó. Trong 10 câu thuộc phần này, trước đều là thể của trì, sau là nghiệp dụng.

Do trì pháp phân minh, nên nói thanh tịnh. Y đây mà thuyết pháp nên không chướng ngại. Đây là câu tổng. 9 câu còn lại là biệt.

Vì được Đà-la-ni…, có 4 câu : Do trì mà khởi 4 loại biện.

Vì được Phật cam lộ…, là nhờ hạnh mà nhập Phật cảnh. Chư Phật vì họ thuyết pháp cam lộ Nhất thiết trí, rưới lên đỉnh và tâm của họ. Trì đó chẳng quên, chỗ thuyết xứng với vật cơ nên khiến họ hoan hỉ.  

Vì được tự giác ngộ…, là thuyết thành tựu. Do pháp nội tự chứng, nên khởi biện tài vô tận đồng với chứng ấy.

Vì nhập đồng biện…, là hỏi đáp thành tựu. Do nhập cái nói đồng với lý, nên thuyết văn nghĩa rộng nhiều vô tận.

Vì được chánh ngữ …, là ngữ ích thành tựu. Do phương ngôn thiện và chánh, nên có nhiều ngôn luận khác nhau, gọi là vô lượng biện. Chánh ngữ nói đây cùng với trước khác nhau thế nào? Trước, là y vào ‘ngữ viên nghĩa đủ’ mà gọi là chánh ngữ, cũng là ngữ của đương nghĩa, nên khác với đây.

Vì được vô lượng tán thán …, là hay hiện thân đồng Phật, tán thán không thể tận.

Với tất cả pháp…, là phần nghiệp dụng. Có thể tự biết.

a2/2 Thuyết thành tựu : Đoạn «Tùy chỗ ứng hóa…». Có hai : 1/Chánh hiển thuyết tướng. 2/Khai hóa vô ngại.

. Chánh hiển thuyết tướng:

Tùy chỗ ứng hóa …, có 3 câu nói về căn cơ sở ứng : Một, là tùy nhiều vào căn cơ thuần thục. Hai, tất cả đều vì chỗ hiểu ngôn âm đó. Ba, đều tùy vào căn cơ đó mà nói nghe sai biệt.

Dùng lưỡi rộng dài…, là chánh hiển tuyên thuyết. Thuyết pháp tương ưng với tâm người được giáo hóa, gọi là không trái đại bi

. Khai hóa vô ngại: Đoạn «Tùy chỗ cảm ứng… ».

Tùy chỗ cảm ứng…, là nhiều âm khai hóa không có chướng ngại.

Nếu có chúng sinh…, là  dùng nhất âm khai hóa vô ngại tự tại. Cũng là một và nhiều, sau là nhiều và một. Hai thứ đó vô ngại, là nhất viên âm.

a2/3 Hỏi đáp thành tựu : Có bốn nghĩa vi tế hơn «Thuyết thành tựu» nới trên :

. Trước chỉ nói thế giới, chưa hiển xứ tự tại vi tế : Ở đây, đầu tiên giả nêu nơi một đầu lông, trong một niệm có vô lượng chúng.

. Một niệm giống các niệm còn lại, ngay cả Tận các kiếp quá khứ đến vị lại.  

. Ngôn từ và câu hỏi khác nhau : Ngôn thanh không đồng, chỗ hỏi đều khác.[31]      

. Bồ-tát không khiếp sợ ngôn từ : Giả như tất cả chúng sinh đều đến vấn nạn, còn một lời cũng đáp, huống là chỉ ít chúng sinh, huống là dùng nhiều lời. Đây là nói về trí lực biện tài hữu dư tự tại, là tại giai vị chưa đăng địa. Được vị tự tại đó là được vị Phổ Hiền trong Viên giáo. Nếu là các Tông khác thì chưa được như vậy, như luận Du-già đã nói.

a2/4 Ngữ ích thành tựu : Hiển chỗ thuyết đầy đủ nghĩa lợi nói trên. Có 5 câu :

Bồ-tát thuyết pháp lời không hư vọng, là tổng.

Trong mỗi lời có vô lượng… , là đầy đủ thâm tuệ.

Thành tựu vô biên các công đức nghiêm, là thành tựu phúc nghiêm, là thọ trì sinh phúc.

Tuệ quang chiếu khắp tất cả các pháp, là chiếu lý đầy đủ.

Thành tựu đầy đủ Nhất thiết chủng trí, là thành tựu quả trí.

b. Thắng tiến hạnh:

b1/ Tổng: Câu Bồ-tát này an trụ Thiện hạnh …. Trước là lặp lại. Vì Tự phần hạnh thành tựu, nên nói an trụ, đồng với An trụ địa phần của Sơ địa nói sau. Kế, Hay tự thanh tịnh cũng hay…, là nhị lợi cùng hiển.   

b2/ Biệt giải thích: Đoạn «Như Tam thiên …» . Có hai :

b2/a Giải thích lược : Đoạn «Như Tam thiên …hóa độ chúng sinh». Đầu tiên, là giải thích tự tịnh. Trong Tự phần trước chỉ nói nơi Tam thiên giới hiện tam nghiệp của Phật, đây muốn nói hơn trước, nên nói «Tam thiên đại thiên thế giới này cho đến vô lượng vô biên trong các thế giới…». Thân và khẩu có thể tự biết.

Nơi tất cả pháp không có chướng ngại, là ý nghiệp thanh tịnh. Làm Phật sự,  là sở tác của ba nghiệp đó.

Dùng vô lượng vô biên…, là giải thích lợi tha, là dùng ba nghiệp thanh tịnh trước tạo sự giáo hóa tha nhân.     

b2/b Giải thích rộng : Đoạn «Thưa các Phật tử !... ». Có hai :

1/ Nói rộng về tự tịnh trước :

Có 10 loại thân…, là nêu số. Sau, là giải thích riêng 10 thân, chia làm 5 môn.

1/a Nói về thể tánh: Lấy ba pháp tịnh pháp giới, Căn bản trí và Hậu đắc trí làm thể. Theo văn kinh có thể thấy. Gộp lại, thì chỉ có cảnh và trí làm tánh. Trí và cảnh song dung thì chỉ còn nhất pháp giới làm tánh.

1/b Giải thích tướng: Mỗi một thân đều có trước nêu, sau giải thích.

Lý không gì không chứng nên nhập vô lượng vô biên pháp giới. Thế gian không gì không vượt, nên trừ diệt tất cả thế gian. Thế diệt, lý hiện là pháp giới thân.

Lý không trệ nên hướng vị lai thế. Không gì không sinh, nên tất cả thú sinh. Trước là siêu vượt thế gian khiến tận, đây thì trùm khắp thế gian đồng sinh.

Tuy trùm khắp các thú (nẻo) đồng sinh nhưng vẫn trụ tịch diệt bất động nên nói bất sinh.

Tuy ngay nơi sinh là bất sinh, nhưng trong thú (cõi) đó thân hằng bất diệt. Cái bất dị bất sinh mà bất diệt này, ngôn từ không thế đến, nên nói ngôn ngữ đoạn dứt.

Thân ly ngôn không có hình thật, vì đó là chân như. Cũng có thể giải thích : Lấy chân như làm thân, nhưng chân thì ly tướng, nên nói không thật. Vì là lý tánh chân thật nên ly thật.

Lìa si vọng, là cái thể xuất khỏi vọng nhiễm. Tùy ứng hóa, là tịnh dụng vô ngại. Như mặt trời ra khỏi mây chiếu dụng tự tại.

Tuy khởi ứng dụng mà thường không đến đi, lìa tử. Các thứ này là giải thích thành. Y nơi định này mà ra khỏi Phần đoạn sinh tử.

Không phải chỉ có dụng không đến đi, mà thể không biến hoại cũng là duyên không thể ngăn trở.

Phi trực thì không bị tứ tướng chuyển, cũng lại là tam tế diệu tuyệt, không thể dùng các ngôn từ đã và chưa mà nắm giữ.

Vô tướng thì không ngại tướng. Có chung tên thân, vì đều có nghĩa y chỉ.

1/c Tương nhiếp: Có hai môn.

- Ứng vào tam thân : Trong đó, pháp giới, không thật, bất hoại, nhất tướng, bốn thân đó là pháp thân. Bất sinh, bất diệt, không đến đi, vô tướng, bốn thân đó là thật báo thân. Vị lai, lìa si vọng, hai thân đó là hóa thân. 

- Ứng vào thập thân : Có ba.

Y vào phẩm Ly Thế Gian sau mà nói 10 thân v.v...

Y vào 10 thân trong kinh Thắng Thiên Vương mà nói v.v...

Y vào 10 thân của kinh Pháp Tập mà nói v.v…     

1/d Đắc xứ: Có bốn vị.

- Hoặc chỉ có Địa thượng[32] đắc, như 10 thân của kinh Thắng Thiên Vương và Pháp tập nói. Đây ứng vào Tam thừa mà nói.

- Hoặc chỉ có Địa tiền đắc, như đây đã nói.

- Hoặc chỉ chung cả hai đắc, như 10 thân trong phẩm Ly Thế Gian nói.

- Hoặc không Địa tiền không Địa thượng đắc, như ở quả vị tam thân, thập thân v.v… đắc.

1/e Định phần hạn :

- Nếu là Bồ-tát Địa tiền trong Tam thừa, thì thân phần đoạn. Bồ-tát Địa thượng mới có thân biến dịch. Trừ Nhị thừa hồi tâm, thì Địa tiền cũng có. Cho nên, 10 thân không nhiếp thuộc đây. 

- Nếu trong Nhất thừa thì có hai thuyết :

. Nếu là nhiếp phương tiện ngôn, thì Địa tiền Địa thượng đều có thân biến dịch. Vì mỗi vị cuối cùng đều đến Phật địa.

. Nếu ngay nơi tự giáo ngôn, thì đều là thân phần đoạn. Vì Bạch Tịnh Bảo Võng Chuyển Luân Thánh Vương được nhục nhãn thấy khắp v.v…, là Bồ-tát Thập địa. Như văn kinh sau nói. Lại, đồng tử Thiện Tài dùng thân phần đoạn mà đến vị Phổ Hiền. Nhưng đó đều là phần đoạn của pháp môn, nên không có lỗi hoạn.    

2/ Nói rộng về lợi tha : Đoạn «Bồ-tát thành tựu … ».       

Bồ-tát thành tựu …, là lặp lại trước để khởi sau, là y nơi 10 thân này mà hóa dẫn chúng sinh. Biệt, thì có 10 câu :

. Hay vì tất cả chúng sinh…, là sinh thiện.

. Làm chỗ cứu hộ … , là lìa khổ.

. Làm chỗ quy y cho tất cả…, là trụ lạc.

Các thứ trên là lợi ích thế gian.

Làm chỗ dẫn đạo tôn trọng…, là chỉ dạy họ con đường vượt thoát.

Làm thầy phương tiện…, là khiến họ thú nhập.

Làm ngọn đèn cho tất cả…, là khiến hiểu tục đế.

Làm minh cho tất cả…, là khiến được chân đế.

Làm ngọn đuốc cho…, là khiến họ đoạn hoặc.

Làm ánh sáng cho chúng sinh…, là khiến thành tựu nhân vị.

Làm đèn nơi mọi nẻo…, là thị hiện quả, khiến hướng về.   

G/3 Kết : Câu Đó gọi là Thiện hiện hạnh…[33]  

G/4 Tán thán:

Vì tất cả chúng sinh làm đầm pháp thanh lương, là tổng tán thán.

Được các pháp để thậm thâm của Phật, là lý do làm đầm pháp. 

Câu trước là kết lại phần tán thán Tự phần trước. Câu sau, là kết lại phần tán thán Thắng tiến.


10/ CHÂN THẬT HẠNH
: Chia làm 7 môn.

A. Giải thích tên: Y ngôn y hạnh, thành tựu công đức xứng với ngôn hạnh, hạnh không hư dối, nên nói «chân thật». Chân thật tức là hạnh, do trì nghiệp mà được tên.

B. Thứ lớp : Hạnh lực chuyển thắng, tăng nhập thật trí.

C. Thế tánh: Lấy dụng Hậu đắc trí làm tánh, kiêm cả đại bi v.v...  

D. Nghiệp dụng: Theo Lương Nhiếp Luận, không trụ sinh tử niết bàn là trí dụng. Lợi ích phàm thánh là trí sở thành sự.

E. Chủng loại: Có 2 loại : 1/Chiếu vật cơ trí. 2/Thọ pháp dược trí. Cũng có 10 loại như sau sẽ nói.

F. Sở thành : Vì vị này đồng với tướng Thập địa mãn túc sau, nên Trí ba-la-mật tăng thượng. Các hạnh còn lại không gì không đầy đủ, nên hạnh vị này mãn rồi, nhập cảnh giới Phổ Hiền vô biên. Văn kinh sau nói : «Nhập nhân Đà-la-võng pháp giới tự tại thành tựu Như Lai vô ngại giải thoát v.v…».  

G. Giải thích : Có bốn : 1/Nêu. 2/Giải thích. 3/Kết. 4/Tán thán.

G/1 Nêu: Câu Thế nào là Bồ-tát…

G/2 Giải thích: Có ba : 1/Nêu bản thệ ngôn. 2/Y ngôn thành hạnh. 3/Hạnh thành đức lập. Hoặc : 1/Ngôn thật. 2/Hạnh thật. 3/Ích thật.

a. Nêu bản thệ ngôn: Đoạn «Bồ-tát này thành tựu… hộ niệm». Có ba : 1/Tổng nêu. 2/Lược giải thích. 3/Nêu sự, giải thích rộng.

a/1 Tổng  nêu:

Như thuyết hay hành, là hạnh xứng với thệ nguyện ban đầu mà thành, hiển ngôn thật nói trên. Như hạnh hay thuyết, là ngôn xứng với hạnh sau cùng thành, hiển ngôn thật nói sau. Do đây, ngôn thật trước sau không hai, gọi là Đệ nhất thành đế ngữ. Song hai thứ ngôn thành thật trước và sau này, tổng có 3 thứ :

. Ứng vào tự hạnh : Như lời thệ đầu tiên của Bồ-tát là xả bỏ mắt. Nếu có người xin, sẽ như lời thệ mà bố thí. Có người hỏi thì nên đáp vì bồ-đề. Lời này sao chứng? Lại phát lời thệ : «Nếu không hư dối thì khiến mắt bình thường lại». Để hiển thị không phải vọng ngữ, mắt như lời thệ bình thường lại. Đây, lời thệ đầu khởi hạnh, lời thệ sau làm tăng hạnh.

. Ứng vào hạnh lợi tha : Như lời thệ đầu của Bồ-tát là độ chúng sinh, theo lời thệ mà cứu độ thì dù tự hạnh đầy đủ cũng không tựu quả. Cần xứng bản thệ để tận sinh giới. Đây cũng là, lời thệ đầu khởi, lời thệ sau đầy đủ.    

. Ứng vào nhân quả : Như Bồ-tát, đầu tiên phát lời thành : «Phải tu vạn hạnh, sẽ thành Phật quả». Như lời, hạnh mãn hậu quả thành Phật, sư tử hống rằng: «Ta độc tôn … ». Đây là lời đầu nói nhân, lời sau hiển quả. Văn sau nói người hùng trong cõi người, sư tử rống … là môn này vậy. Trong ba nghĩa trên, trong hạnh này, nghĩa thông cả ba. Theo văn kinh thì chỉ có hai nghĩa sau.

a/2 Lược giải thích: Có 2 câu :

Bồ tát này học chân thật ngữ …, là giải thích «Như thuyết hay hành». Như lời khởi hạnh, nên nói thật ngữ. Chứng nhập thật tánh bình đẳng của ba đời chư Phật, là khởi Nhập lý hạnh. Đồng thiện căn … là khởi Duyên sự hạnh.

Bồ-tát này thành tựu …, là giải thích «Như hạnh hay thuyết». Tuy thành tựu đại thiện mà không trái với chí giáo hóa, không mất tiền ngôn, nên lời bất nhị. Vì đầu không trái cuối, nên nói bất nhị. Đây là năng hạnh đầu tiên nên thật, cuối cùng không đổi nên bất nhị. Đây đều là đồng hành với ba đời chư Phật, thuận với Phật quả trí, nên nói Tùy thuận tất cả…

a/3 Giải thích rộng : Đoạn «Bồ tát này thành tựu Chúng sinh… ». Có hai.

1/ Hạnh đức tuy cao mà không bỏ bản nguyện: Có hai :

1/a Thành tựu 10 lực trí nguyện hiển đức tôn cao : Nghĩa Thập lực trong hạnh Bồ-tát này như trong phẩm Tịnh Hạnh đã giải thích. Kinh Tịnh Danh nói : «Tuy được Phật đạo, chuyển pháp luân, nhập niết-bàn mà không bỏ con đường Bồ-tát, là hạnh Bồ-tát».  

1/b Không bỏ bản nguyện, cứu nhiếp chúng sinh: Mà không bỏ tất cả sở hành của Bồ-tát.

2/ Giải thích ý không bỏ bản nguyện: Đoạn «Vì sao ? … »  Có ba :

- Ta thấy chúng sinh …, là phản giải thích : Nêu lỗi, trái với thệ nguyện, tự răn chẳng nên.  

- Ta sẽ đầy đủ… , là thuận giải thích : Thuận theo bản nguyện mà lý tự khai mở.

- Vì sao…, là chuyển giải thích : Nhớ xưa nghĩ nay khiến tâm dũng mạnh. Có hai : 

. Vì không có chúng sinh … , là nhớ xưa : Lời phát tự trong, há lại tự nuốt. Đây là sợ trái với thệ nguyện xưa mà thành lỗi.

. Cho nên ta đối với…, là nghĩ nay : Vì không do người thỉnh cầu, chỉ do ta tự phát nguyện vì người, vì thế đức của ta thành thù thắng. Nay nếu bỏ sự cứu hộ liền trái với đức này. Đây là sợ trái với hiện đức mà thành lỗi. Do trước khởi sau,nên nói cho nên.

Cũng có thể giải thích : Ta đối với chúng sinh là có thắng đức có thể vì họ cứu độ, nếu bỏ không cứu thì trái với đức này. Trong đó có 6 câu, đều trước nêu sau giải thích.

. Vì không chấp trước nên thù thắng.

. Vì điều nghiên, nên là tối thượng.

. Vì hiểu «không» nên lìa ám.

. Vì nguyện đầy đủ nên được sở ứng.

. Vì đầy đủ đức nên khéo biến hóa.  

. Vì được Phật hộ niệm nên có thiện nhiếp thủ.

Từ trên tới đây là thành lập bản thệ nguyện, hiển không thể trái.   

b. Y ngôn thành hạnh: Đoạn «Bồ-tát ma-ha-tát…đầy đủ rồi». Y nơi lời thề xưa mà thành tựu sự giáo hóa. Trong đó có ba câu :

Bồ-tát ma-ha-tát …, do trước không xả bỏ mà được trí tuệ vô thượng độ sinh này.

Tùy tất cả chúng sinh …, là nói chính về việc cứu độ.

Theo bản nguyện… , là thành mãn bản nguyện. Đó là như lời mà làm, không gì không rốt ráo nên nói đầy đủ rồi

c. Hạnh thành đức lập: Đoạn «Được trí tuệ tự tại …hai pháp». Mãn vị này thì thành tựu công đức của pháp giới Phổ Hiền viên minh tự tại. Trong đó có hai :

c/1 Thành tựu nhân đầy đủ : Có ba : 1/Nêu hai lợi. 2/Giải thích, hiển sự thành tựu viên mãn. 3/Kết đức vô tận.

1/ Nêu hai lợi: Được trí tuệ tự tại…, là hiển tự hạnh đầy đủ. Khiến tất cả chúng sinh đều được thanh tịnh, là hiển lợi tha viên tròn.  

2/ Giải thích: Có hai.

2/a Hiển phần trí tuệ tự tại : Đoạn «Trong từng niệm … » Cũng có hai.

. Thân ấy không gì là không đến, đồng với pháp giới hư không. Vô lượng vô ngại, là nói một xứ hiện tức là tất cả xứ hiện. Không sở y, là thân khởi mà không có gốc, nên được tự tại.

. Thân ấy không gì không dung, nội hàm tất cả. Vì tam thế gian đều ở trong thân mà hiện. Do thân pháp giới này mà dọc thì chứa tam vị, ngang thì bao chín đời. Cho nên, chư Phật vị lai cũng ở trong đó mà hiện.

2/b Hiển khiến chúng sinh thanh tịnh : Đoạn «Bồ-tát này biết chúng sinh… ». Có ba :

Biết chúng sinh chủng chủng … , là biết hóa khí.

Tùy chỗ ứng cảm …, là hiện thân thuyết pháp. Cũng là giáo hóa chúng sinh trong tự thân.

Hiểu tất cả pháp …, là đối với việc giáo hóa không chấp trước. Vì dùng các huyễn pháp giáo hóa chúng sinh mộng. Cho nên tuy giáo hóa mà hằng là không giáo hóa.        

3/ Kết đức vô tận: Có hai:

Bồ-tát này nghĩa thân…, là do ngoại hóa trước viên mãn nên hiển Lượng trí vô tận.

Nhập các tam muội …, là do nhân hạnh viên mãn nên hiển Lý trí không hai. Chúng sinh đều y nơi nhị pháp, là nêu phàm để hiển thánh.  

Từ trên đến đây là nhân đức xong. Đồng với vị Đẳng giác. Luận Trí Độ q.40 nói : «Lại nữa, Bồ-tát Thập trụ cùng với Phật không có sai biệt như Biến Cát, Văn-thù- sư-lợi, Quán Thế Âm v.v… đầy đủ công đức Thập lực của Phật mà không làm Phật, vì rộng độ chúng sinh». Cho đến nói: «Chư Bồ-tát này đối với Bồ-tát khác là lớn, so với Phật thì chẳng thể biết khắp. Như ánh sáng của mặt trăng tuy lớn, nhưng đối với mặt trời thì không hiện». Giải thích : Đó là ứng vào Thập địa mà gọi là Thập trụ, là địa thứ mười, đồng với nghiệp dụng của hạnh thứ mười ở đây.     

c/2 Thành tựu quả đức đầy đủ : Vì đức viên mãn, Bồ-tát đầy đủ hai dụng nhân quả này. Trong phần đồng quả đức dụng này có :

Trụ tâm đại bi …, là lặp lại trước để khởi sau.

Được Thập lực …, là chánh hiển chỗ thành tựu. Đây đồng với vị Diệu giác. Theo văn kinh thì thành tựu 10 loại trí công đức của Như Lai :

1/ Được Phật viên minh Thập lực trí.

2/ Nhập Đế võng pháp giới trí.

3/ Thành tựu Phật vô ngại giải thoát trí, là bất tư nghì giải thoát, như phẩm Bất Tư Nghì nói có 10 loại. 

4/ Thành tựu nhân hùng vô úy trí, là thật đức sư tử hống.

5/ Đắc chuyển đại pháp luân trí, là pháp vương tuyên pháp.

6/ Thành tựu Phật vô ngại trí. Hiển không có vô minh vi tế ngại, cũng hiển tận xứ của biến dịch.

7/ Thành tựu Phật vô cấu trí. Hiển không có vô minh vi tế trước, cũng hiển tận xứ của biến dịch.

8/ Quảng ích chúng sinh trí.

9/ Hưng hộ chánh pháp trí.

10/ Vô công nhiếp hóa trí, là có thể đồng hết với phương tiện nhiếp hóa của cổ Phật .

G/3 Kết : Đó gọi là Chân thật hạnh...

G/4 Tán thán: Đoạn «Bồ-tát này an trụ …».

Từ trên đến đây, chánh thuyết xong.


II. TƯỚNG LỢI ÍCH CỦA VIỆC THUYẾT PHÁP
: Có hai :

Mười phương thế giới …, là động địa, để sinh tín công đức.

Mưa mây thiên hoa, mưa … , là mưa cúng dường, thuộc kính trọng công đức. Có bốn :

1/ Mưa cúng dường.

2/ Tạo nhạc tấu khúc Thập hạnh.

3/ Thiên quang.

4/ Thiên âm tán thán đức Thập hạnh.   

Từ trên đến đây tổng thành một thế giới,trong đó thuyết Thập hạnh xong.

Từ đây trở đi, nói về Thập hạnh được thuyết ở mười phương vô tận thế giới. 


THẬP HẠNH TẠI MƯỜI PHƯƠNG GIỚI

Đoạn «Như tứ thiên hạ… ». Cúng dường cũng vậy, cùng với đây hợp đồng, kết thành một bộ. Nghĩa là, một Thập hạnh tức là tất cả.


VI. CHỨNG THÀNH PHẦN
: Trong đó có hai : 1/Tác chứng tại xứ này. 2/Tác chứng ở tất cả xứ.

1/Tác chứng tại xứ này : Có bốn : 1/Bồ-tát lai tập. 2/Tán thán pháp được thuyết. 3/Đều nêu chứng sự. 4/Thuật ý thành chứng.

Lúc ấy mười phương …, là Bồ-tát vân tập.

Đến rồi, nới với …, là tán thán pháp đã thuyết.

Chúng con, các Bồ-tát… , là nêu chứng sự.

Cho nên, thưa Phật tử ! Chúng con …, là thuật ý thành tựu sự tác chứng.

Hỏi : Do hạnh pháp viên dung nên Bồ-tát, thế giới và chư Phật đồng tên Công Đức, vì sao xứ này, Phật và thế giới không gọi là Công Đức?

Đáp : Trong kinh này, phàm là sở chứng, thảy đều đồng là Phật Lô-xá-na, thế giới đồng là Hoa tạng Sa-bà. Bồ-tát thuyết pháp là từ pháp mà được tên. Phàm là năng tác chứng nhất định đồng pháp danh, vì chủ bạn khác nhau. Nếu xứ này thấy đây kia là năng tác chứng thì danh đây đồng kia, danh kia đồng đây. Đó là quy lệ rộng trong kinh mà thôi (是此經中規例宏致之所爾也).

2/ Tác chứng ở tất cả xứ : Từ trên đến đây, mười phương đều có thập vạn Phật sát đồng thuyết Thập hạnh. Tất cả quyến thuộc ở đó là bạn của một chủ. Còn tự mình thì không phải là chủ nhiếp ở mười phương, cho nên sau liền kết ở mười phương..., là nói tất cả xứ đồng tác chứng. Từ trên đến đây, một chứng là tất cả chứng. Tổng nói chứng thuyết xong.    


VI. KỆ TỤNG PHẦN
: Trong phần trùng tụng có hai : Trước là tựa ý, sau là chánh hiển.

1/ Tựa ý: Có 10 câu riêng.

Quán khắp tất cả pháp giới,[34] là hiển đồng thuyết.

Cùng các quyến thuộc, là quán quyến thuộc khiến thích nghe, là chánh hiển thuyết ý.

Muốn khiến Phật chủng mãi chẳng đoạn dứt, là khiến được siêu quả.

Muốn khiến chủng tánh Bồ-tát thanh tịnh, là khiến được tịnh nhân

Muốn khiến nguyện chủng Bồ-tát chẳng chuyển, là nguyện kiên cố.

Muốn khiến hạnh chủng chẳng đoạn, là hạnh tương tục.

Trên thuộc Tự phần hạnh.

Muốn khiến nhiếp thủ Phật chủng ba đời, là thắng tiến nhiếp Phật. Đây, trên là tự đức, dưới là minh lợi. 

Muốn phân biệt thuyết chúng sinh thiện căn chủng, là thuyết Thập hạnh và thiện căn sai biệt của chúng sinh khiến đời học tập.

Muốn quán sát tất cả chúng sinh thời căn, là lường khí trao pháp.

Muốn thích cấu tịnh tâm sở hành chủng …, là tổng kết.

Các thứ này đều ứng vào nhân môn mà thuyết, nên đều gọi là chủng, cũng là vị tánh chủng.  

2/ Chánh hiển: Trong phần trùng tụng, 7 chữ hay 5 chữ, bản Phạn vốn không sai biệt, đều lấy bốn câu làm một bài tụng. Tất cả có 101 bài kệ. Trong đó, kệ tụng và văn trường hàng trước, văn thế không đồng. Lược nói 5 lệ :

1/ Trước, là ứng vào vị, trước sau trải ra mà nói. Nay, thì hội dung những gì nói trước, khiến không có trước sau. Cho nên trong mỗi hạnh đều đủ tất cả hạnh.

2/ Trước là ứng vào biệt hạnh, đây nói phổ hạnh. Vì phổ và biệt vô ngại nên hai văn cùng hiển.

3/ Trước chỉ ứng vào nhân, đây thông cả quả hạnh. Vì nhân quả viên dung là hạnh môn pháp giới này.

4/ Trước là ứng vào đồng giáo nhiếp hàng trung căn, nay hiển biệt giáo che trùm hàng thượng đạt. Vì đồng và biệt vô ngại là nhất viên giáo.

5/ Trước là ứng vào bất tạp biện tài, đây thì ứng vào nhậm phóng biện tài, thuyết không đợi thứ tự, ngôn biện không đoạn.

Trong văn kinh có hai :

2/1 Tán thán công đức Phật : Tán thán công đức Phật khiến người nguyện cầu. Từ kệ (1) đến (5). Có hai :

Kệ (1) và (2) : Tán thán Phật Xá-na, là hóa chủ. Trong đó, kệ (1) tán thán trí vô cấu, vô quái ngại của Phật. Kệ (2), hai câu đầu : Tán thán thắng đức rộng lớn của Phật. Hai câu sau tán thán hạnh chứng viên tịnh của Phật.

Kệ (3) và (4) : Tán thán mười phương Phật, vì là trợ gia trì. Kệ (3) hiển nhị nghiêm quả mãn, là giải chân tuệ thâm, phúc thắng khó bằng, chóng rốt mãn quả. Kệ (4) là chân bi lợi ích rộng.

Kệ (5) : Hiển trí đoạn đức tề.  

2/2 Tụng về Bồ-tát hạnh: Tụng Bồ-tát hạnh để người học tập. Hiển trong vị này đầy đủ hai hạnh nhân quả. Lại, do Phật gia trì mà thuyết nên trước tán thán Phật. Do hạnh mà thuyết nên sau tụng về hạnh - Từ kệ (6) đến (97).
Phần tụng về Bồ-tát hạnh này có ba [35]:

a. Hạnh nghiệp không thể nghĩa bàn : Kệ (6) đến (11) : Kệ bảy chữ, tụng về hạnh nghiệp không thể nghĩ bàn (thuộc Bản phần nói trên) rộng như pháp giới, rốt ráo như hư không.

Sáu bài kệ hiển sáu loại hạnh nghiệp đều không thể nghĩ bàn [36]. Kệ (6), là hạnh thấy Phật lìa vọng. Kệ (7), là hạnh thấy lý thành tựu công đức. Kệ (8), là hạnh vô công dụng quảng đại. Kệ (9), là hạnh tịch dụng vô ngại. Kệ (10), là hạnh nguyện kiên cố, tôn trọng và tối thắng. Kệ (11), là hạnh nhiếp vị nhiều môn.    

b. Thập hạnh sai biệt : Kệ (12) đến (97) : Tụng về Thập hạnh sai biệt (thuộc Thuyết phần nói trên).

Kệ (12) là tổng thuyết Thập hạnh.

Sau là biệt hiển.

Kệ (13) đến (18) : Tụng về Hoan hỉ hạnh. Trong đó ba kệ đầu nói về vô úy thí : Kệ (13), là lìa hại lợi đời. Kệ (14), là cứu khổ khiến an. Kệ (15), là ngữ ý thọ não. Kệ (16) và (17), là pháp thí. Kệ trước là nghĩa rốt ráo. Kệ sau là thuyết giáo. Kệ (18), là tài thí. Trăm phúc, kinh Niết bàn nói : «Hạ, trung, thượng, thượng trung, thượng thượng trong ngũ phẩm tâm đều tu Thập thiện», đó là năm mươi. Trước tu năm mươi. Cuối cùng tu năm mươi nữa, nên có trăm phúc. Trăm phúc trang nghiêm một tướng.

Kệ (19) đến (23) : Tụng về Nhiêu ích hạnh. Kệ (19), là Luật nghi giới, là  謂過不能動. Kệ (20) và (21) : Tụng về Nhiếp thiện pháp giới. Kệ trước là thuận pháp hạnh. Kệ sau là lìa hai hạnh. Kệ (22) và ½ kệ (23) : Nói về Nhiếp chúng sinh giới. Kệ (22) là hóa xứ. ½ đầu kệ (23) là hóa hạnh.    ½ sau kệ (23) : Tổng kết Tam tụ.  

Kệ (24) đến (27) : Tụng về Vô khuể hận. Kệ (24) nói về Pháp giới thắng giải nhẫn. Kệ (25) và (26) : Nói về An thọ khổ nhẫn, là khi tự tu hành có khổ có thể nhẫn chịu. Kệ đầu, là nhẫn tâm khổ. ½ kệ đầu nêu chỗ tu. Tâm thường không giải đãi, là nói tâm an nhẫn. Kệ sau, là nhẫn thân khổ. ½ kệ đầu nêu chỗ tu. Thân hành không chướng ngại, là nói thân an nhẫn. Kệ (27) : Nói về Tha bất ích nhẫn. ½ kệ đầu nêu cảnh phải nhẫn. Bồ-tát đều cứu hộ, là nêu lợi ích nghịch với tổn hại,  nói chính về năng nhẫn.

Kệ (28) đến (32) : Tụng về Vô tận hạnh. Kệ (28) và (29), là Gia hạnh tinh tấn. Kệ đầu, tụng 10 câu «Chuyên tu tinh tấn …» nói trên. Kệ sau, là tụng về phần «Muốn đều biết chúng sinh căn dục…», nên tu hành tinh tấn. Kệ (30), là Mặc giáp tinh tấn, tụng phần «Vì chúng sinh thọ địa ngục khổ …» nói trên. Kệ (31) và (32), là Vô yểm túc tinh tấn. Kệ đầu, là trí quang biến khắp lợi ích chúng sinh. Kệ sau, là thần lực thường lợi ích chúng sinh, nên không thấy đủ.

Kệ (33) và (34) : Tụng về Ly si loạn hạnh. Kệ đầu, hiển Pháp lạc trụ thiền. ½ kệ đầu nói về gia hạnh, tụng phần phân biệt sắc pháp, kinh luận v.v… ở thế gian. ½ sau , là trụ định. Trí tuệ, hiển lìa si. Bất động, hiển lìa loạn. Kệ sau, là Dẫn công đức thiền.  Địa vô tận, tụng phần nghe thọ chánh pháp cho đến nhiều kiếp chẳng thoái quên v.v...

Kệ (35) đến (36) : Tụng về Thiện hiện hạnh. Chánh thể gia hạnh trước lược qua không tụng. Trong phần Hậu đắc trí, kệ (35) là đại trí tự hạnh tụng phần «Mà cũng không bỏ tâm bồ-đề» nói trước.  Kệ (36), là đại bi lợi tha tụng phần «Không bỏ giáo hóa chúng sinh tăng đại bi» v.v…

Kệ (37) đến (40) : Tụng về Vô trước hạnh.  Kệ đầu, là thọ ký chân thật. Dùng phương tiện độ đầy đủ nên nói rốt ráo. Kệ (38), tụng về bi niệm chúng sinh v.v… nói trước. Hai kệ sau tụng về ngữ ngôn đạo tâm vô trước.

Kệ (41) đến (48) : Tụng về Tôn trọng hạnh.  Kệ (41), là thâm hiểu pháp giới, trụ vô tướng trụ. Kệ (42) tụng lại phần trong vô lượng kiếp hành Bồ-tát đạo không kể các khổ mà sinh ưu não v.v… nói trên.  Kệ (43) và (44), là dùng phổ nhãn thấy Phật, cũng là tụng lại phần đồng cùng với ba đời chư Phật . Kệ (45), 延促 giải thoát là giải thoát không thể nghĩ bàn cũng đắc, tụng lại phần phi cứu cánh phi bất cứu cánh v.v…trên.  Kệ (46), tụng lại phần nếu có chúng sinh cung kính, thấy nghe đều được trụ không thối chuyển v.v… Kệ (47), tụng lại phần tâm thường ưa thích diệu pháp của chư Phật. Kệ (48), tụng lại phần không lìa một chúng sinh mà chấp nhiều chúng sinh v.v…    

Kệ (49) đến (51) : Tụng về Thiện pháp hạnh. Kệ (49), tụng về Trì thành tựu, đầm pháp thanh lương v.v… Kệ (50), tụng về thuyết và hỏi đáp thành tựu v.v… Kệ (51), là y nơi định hiện thân, tụng về thân kim sắc và thậ thân v.v…

Kệ (52) đến (97) : Tụng về Chân thật hạnh. Phân làm năm :

1/ Tổng tụng : Kệ (52) đến (54) : Kệ đầu, là nhẫn trí qua hết. hai kệ sau, là thân độ vô ngại. Một là như ý thông. Hai là huyễn thông.

2/ Ngôn hạnh tương ưng : Kệ (55) đến (61). Ba kệ đầu tụng về Thập lực trí đã thành. Kệ (58), tụng về chánh ngôn hạnh không hư dối. Ba kệ sau, tụng về nhập tam xuất Phật tánh và thiện căn v.v…

3/ Y lời thệ khởi hạnh, y theo ngôn nhiếp sinh : Kệ (62) đến (73). Văn trên nói lược còn ở đây nói rộng. Trong đó, kệ (62) đến (64), là truyền tịnh nhãn và mưa pháp. Kệ (65) và (66), niềm tin kiên cố, tri tâm hóa. Kệ (67) đến (70), là tam nghiệp tự tại hóa. Kệ (71) và (72), là biết cơ trao pháp. Kệ (73), là kết thán hiển sự thù thắng.

4/ Nhân mãn đức sở thành : Kệ (74) đến (82). Kệ (74) và (77), là nhị nghiêm hai lợi đầy đủ. Kệ (78) đến (82), là hai dụng của ba nghiệp tối cùng. Kệ (78), là thân. Kệ (79), là ý. Kệ (80), là ngữ. Kệ (81), là thân dụng. Kệ (82), là ngữ dụng. Theo thứ tự có thể biết. Đây là phần «Bồ-tát này, nghĩa thân, vị thân không thể cùng tận» thuộc văn kinh trên.

5/ Phật quả đức sở thành : Kệ (83) đến (97). Trong đó có hai : Kệ (83) đến (89), là biệt tụng văn kinh trên. Kệ (90) đến (97), là tụng chung các đức ấy.

. Kệ (83), là thành tựu Như Lai vô ngại giải thoát và nhân hùng vô úy v.v… Kệ (84), là dứt dòng sinh tử, nhập biển trí tuệ, nhiêu ích chúng sinh v.v… Kệ (85) đến (87), là tám tướng hằng tịch, tụng về cùng tận phương tiện đại hải của chư Phật. Kệ (88), tụng về quán địa bất nhị nói trên. Kệ (89), là hộ trì chánh pháp của ba đời chư Phật. Kệ (90) đến (93), là nhị lợi thành tựu, công đức đầy đủ. Kệ (90) đến (92), là tự lợi. Kệ (90), là tán thán sắc căn thù thắng. Tán thán thiên về nhãn nhĩ và thân là tánh chung, nên không luận về tỉ và thiệt. Kệ (91) và (92), là tán thán tâm thù thắng. Kệ đầu tán thán tuệ, kệ sau tán thán định. Lại, kệ đầu vừa tán thán chung vừa tán thán trí. Kệ sau vừa tán thán định vừa tán thán tuệ. Kệ (93), là lợi tha. Kệ (94) đến (97), là ba nghiệp thù thắng. Kệ (94), là sinh xứ thù thắng. Kệ (95), là ngôn biện thù thắng. Kệ (96), là thân quang thù thắng. Kệ (97), là ứng cơ thù thắng.    

c. Tổng kết Thập hạnh : Kệ (98) đến (101). Tán thán để hiển sự thù thắng. Có thể tự hiểu.  
   



[1] (110, 2, 1)

[2] (110, 3, 14)

[3] (111, 3, -8)

[4] Được ghi chú : sửa thành ‘bất khả tư số’, là số không thể nghĩ bàn.  

[5] 8 môn còn lại như kiến lập, chủng loại v.v…

[6] Tam đàn : Chỉ cho ba loại bố thí tài, pháp và vô úy.

[7] (115, 1, 2)

[8] Phần kế tiếp, trong bản Hán văn nằm sau phần ‘Ngộ tất cả pháp …’. Đưa lên đây để dễ theo dõi. 

[9] (116,2,1)

[10] Nan hoại : khó hoại.

[11] (116,3,-11)

[12] (117, 1, 11)

[13] Chánh định không làm não loạn người.

[14] Thêm vào cho rõ nghĩa.

[15] (116,3,-11)

[16] Phần kế là đưa từ phần sau lên cho dễ theo dõi.

[17] Có chỗ sửa là 58.

[18] (118,3,-10)

[19] Đưa phần sau lên  để dễ theo dõi.

[20] Giải thích vì sao nhiễm chỉ có một câu, mà phần tịnh trên thì nói rất nhiều.

[21] (119,1,17) : trong bản Hán ghi : “không có thương ghét”, nhưng câu đó không có trong văn kinh nên không ghi vào.

[22] (120, 2, 12)

[23] Dịch sát văn từ bản hán. Nhưng xin hiểu là : Có lợi ích do tu thiện thì chúng sinh giới cũng chẳng tăng …, Các phần sau cũng theo ý đó mà hiểu.

[24] (121,2,-4)

[25] Hạnh giáo hóa bằng cách không dạy. Không dạy gì thì theo văn kinh sẽ hiểu.

[26] (121, 3, 14) Nhi năng thú hướng sở duyên sở thành cố vô niệm.

[27] (122, 2,1).

[28] (122, 2, 3)

[29] Phiền não mới có và đã thuần thục.

[30] Dịch giả thêm vào để dễ theo dõi các phần sau.

[31] Phần in nghiêng là trích thêm kinh để dễ theo dõi.

[32] Địa thượng : Đăng địa. Địa tiền : Chưa đăng địa.

[33] Theo thứ tự của ngài Hiền Thủ mà thêm vào để dễ theo giỏi, trong bản Hán đi thẳng vào phần 4/ Tán thán.

[34] Phần văn kinh in nghiêng này là thêm vào để dễ theo dõi.
[35] Phần sau đưa từ phần sau (trong bản Hán) lên, để tiện theo dõi
[36] Phần này đưa từ phần sau (trong bản Hán) lên, để tiện theo dõi