Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Ký Q3
LÔ XÁ NA - Phẩm 2 (Phần 2a)
Giải thích quang minh, thắng âm ...
15/07/2017HOA NGHIÊM KINH THÁM HUYỀN KÝ
Phẩm 2 - Phần 2a
(Xem tại đây)
B2. HÀO QUANG THỊ PHÁP
Đoạn "Lúc đó, Thế Tôn vì muốn cho tất cả ..."
Quang minh thị pháp và chủ có hai : Trước là tại thế giới này. Sau là kết thông.
TẠI THẾ GIỚI NÀY : Cũng có hai : Trước, hiển bày chủ là cội nguồn của giáo nghĩa. Sau, hiển bày pháp là tướng của giáo nghĩa.
1a. CHỦ LÀ CỘI NGUỒN CỦA GIÁO NGHĨA (HÀO QUANG) : Đoạn “Lúc đó, Thế Tôn vì muốn … bàn chân Phật”.
1. Ý nghĩa quang minh : VÔ LƯỢNG VÔ BIÊN … có 3 ý :
. Để chúng sinh biết pháp được thuyết.
. Cảnh giới Phổ Hiền.
. Để biết Phật không gì không thuyết được.
2. Danh tướng quang minh :
. Tướng quang minh : GIỮA CHẶNG MÀY, biểu trưng cho pháp trung đạo thuộc Nhất thừa. BẠCH HÀO biểu trưng cho bạch tịnh pháp do chứng đạo vô lậu. BẠCH cũng là gốc của màu sắc, biểu trưng Nhất thừa là cội nguồn của các giáo. HÀO là lông dài, cũng là lông tơ. Kinh Quán Phật Tam-muội Hải nói: “Khi còn là thái tử, bạch hào duỗi ra thì dài 5 xích. Dưới cây bồ-đề, dài 1 trượng 4 xích 5 thốn. Thành Phật rồi, dài tới 1 trượng 5 xích. Cuộn tròn như trăng rằm mùa thu, trắng trong như ngọc như tuyết”. BẢO SẮC là thể của quang minh. ĐĂNG MINH là dụng. Lý đáng quí, nên nói BẢO SẮC. Trí chiếu khắp, nên nói ĐĂNG MINH. Cảnh trí lợi ích cùng khắp, nên nói là MÂY, cũng như mani đồng với các sắc.
. Lập danh quang minh : Là ‘Nhất thiết Bồ-tát tuệ quang quán sát chiếu thập phương tạng’. Vì hiển người khi còn ở nhân địa tu hành, nên gọi là BỒ-TÁT.
3. Thắng dụng của quang minh : “Quang minh này chiếu … đại chúng rồi”.
. Sự thì rộng khắp
. Lý thì chân chánh thâm sâu.
. Nói về nhân duyên thuyết pháp : Do lực đại nguyện mà có giáo thuyết.
. Hiển pháp môn để hội chúng biết pháp từ môn Phổ Hiền xuất ra.
Hỏi : Văn kinh trên không nói chỉ chiếu Phổ Hiền, sao còn nói hiển hiện dạy chúng?
Đáp : Vì sở chiếu trên chính là Phổ Hiền.
4. Nhiếp dụng qui về gốc : Câu “Quang minh đó nhập … Chân Phật”. Hào quang xuất ra từ giữa chặn mày rồi nhập trở vào dưới lòng bàn chân, biểu trưng thượng pháp có thể truyền xuống thấp. Truyền xuống thấp mà không mất gốc nên NHẬP TRỞ VÀO. Giữa chặn mày và dưới bàn chân khác nhau, sao nói trở vào? Là để hiển trên dưới không hai. Hào quang chiếu Phổ Hiền, là quả nương nơi nhân. NHẬP TRỞ VÀO nơi lòng bàn chân, là nhân thành quả.
1b. PHÁP LÀ TƯỚNG CỦA GIÁO NGHĨA (THỊ PHÁP) : Đoạn “Nơi đó lại có … khó nghĩ bàn ”. Có hai : 1/Nói về liên hoa, là nghĩa sở thuyên. 2/Nói về thắng âm, là giáo năng thuyên. Ngồi nơi liên hoa là ứng với nghĩa ban thí giáo.
1. Nói về liên hoa (Nghĩa sở thuyên) :
Câu (1) : Là tổng. NƠI ĐÓ, chỉ cho đất đạo tràng, cũng chỉ cho vòng xoáy như hình bánh xe nơi lòng bàn chân Phật. LIÊN HOA, vì là khai mở, vì vượt khỏi nước Tam thừa, vì không nhiễm, vì vi diệu. Là chỗ mà những chú ong thánh chọn để chứng nhập.
Câu (2) : LẤY BÁU LÀM THÂN, vì đáng quí và kiên cố.
Câu (3) : TẠNG, vì hàm nhiếp, vì xuất sinh, vì đầy đủ công đức.
Câu (4) : CÁNH HOA, vì phủ che, vì quảng đại thậm thâm nên CHE KHẮP PHÁP GIỚI.
Câu (5) : TUA bằng HƯƠNG BÁU, vì quyến thuộc dày đặc.
Câu (6) : VÀNG DIÊM-PHÙ-ĐÀN, là thứ trội nhất trong các thứ báu. VÀNG, là tướng quí nổi bật. ĐÀI, chỉ cho sự cao vượt.
Câu (7) : Tổng kết.
Các thứ này đều là pháp môn. Nếu là Tam thừa, các SỰ đó chỉ biểu trưng cho pháp, mà SỰ đó không phải là pháp. Nếu là Nhất thừa, SỰ đó chính là pháp, mà có SỰ hiển hiện.
2. Nói về thắng âm (Giáo năng thuyên) : Trước, là nêu thể. Sau, là kệ tụng để biết về tướng giáo thuyết.
A. Thể của giáo thuyết : Có ba.
1/ Giáo từ giữa chặn mày của Phật xuất ra, là muốn hiển thị y chứng khởi thuyết và giáo là từ nơi Phật mà lưu xuất, như thắng lưu của pháp giới. Luận nói: “Pháp lưu xuất từ pháp giới tối thanh tịnh”.
BỒ-TÁT XUẤT HIỆN : Chỉ cho người còn ở nhân địa tu hành.
CHƯ PHÁP là sở thuyên. THẮNG ÂM là năng thuyên. Luận nói: “Khế kinh lấy văn nghĩa làm thể”. Theo Nhất thừa, thấy được Bồ-tát này, gọi là thấy được giáo thể, vì nhân pháp vô ngại, vì hiển giáo pháp viên mãn, vì chủ bạn đầy đủ. Thuận lý, nên CUNG KÍNH NHIỄU QUANH.
2/ Vì xứng nghĩa, nên NGỒI nơi ĐÀI và TUA LIÊN HOA.
3/ Do xứng nghĩa nên khiến giáo thành thật, nên tán thán công đức.
Phần công đức có 4 :
Câu (1) : Dưới, khế hợp với căn cơ của chúng sinh.
Câu (2) : Trên, thuận với Phật cảnh.
Câu (3) : Cùng tận nghĩa hải nói đây.
Câu (4) : Khiến qui Phật quả.
TRÙNG TỤNG
B. Tướng giáo thuyết : Có hai : Trước, Bồ-tát Thắng Âm nói về giáo thể thù thắng. Sau, Bồ tát Viêm Quang nói về giáo dụng uy thắng.
1. GIÁO THỂ THÙ THẮNG : Có ba bài kệ.
Kệ (1) : Một đức Phật biến khắp pháp giới mà vẫn ở nơi cội bồ-đề .
Kệ (2) : Nhiều Phật, mỗi Phật biến khắp pháp giới mà đồng ngồi nơi một lỗ lông.
Kệ (3) : Như một lỗ lông, tất cả lỗ lông cũng vậy, đều đủ chủ bạn.
Ba bài kệ này theo thứ tự đó mà tăng rộng.
Cũng giải thích như sau :
Kệ (1) : Thân Lô-xá-na đầy khắp pháp giới.
Kệ (2) (3) : Trong lỗ lông hiện vô lượng tam thế gian, trùng trùng vô tận.
2. GIÁO DỤNG UY THẮNG :
SƯ TỬ có được 3 thứ :
. Không sợ nghĩa lý thậm thâm, nên QUANG chiếu.
. Không sợ vô ích, nên thiêu cháy (VIÊM) các hoặc.
. Không sợ dị học và không khuất phục, nên PHẤN TẤN.
Đều là giáo, nên gọi là ÂM.
Kệ của phần này, trước nói về nghĩa pháp luân, sau là giải thích văn kinh.
2/1 Nghĩa : CHUYỂN PHÁP LUÂN có 10 môn : 1/Giải thích tên. 2/Thể tánh. 3/Chủng loại. 4/Chuyển tướng. 5/Phần hạn. 6/Chuyển xứ. 7/Chuyển thời. 8/Chuyển nhân. 9/Chuyển cơ. 10/Các môn.
1. Giải thích tên :
PHÁP là nghĩa quĩ trì. Có 4 loại : Giáo, lý, hạnh, quả.
LUÂN là nghĩa sở thành. Có 4 nghĩa :
. Viên mãn : Vì lìa khuyết giảm.
. Đầy đủ công đức : Vì trục, nan, vành v.v… đều đầy đủ.
. Hữu dụng : vì nghiền nát hoặc chướng.
. Chuyển động : vì từ đây hướng đến kia, là từ Phật đến chúng sinh. Cũng là từ kia hướng về đây, là từ chúng sinh đến Phật quả.
PHÁP tức là LUÂN, thuộc Trì nghiệp thích. Lại, LUÂN là thí dụ, ví như luân bảo của Thánh vương. Tức là luân của pháp, thuộc Y chủ thích.
2. Thể tánh : Nói chung, giáo v.v… có 4 pháp làm tánh.
a. Chỉ lấy Bát chánh đạo làm tánh. Lấy GIỚI làm trục bánh xe. Đó là chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Lấy TUỆ làm nan xe. Đó là chánh kiến, chánh tư duy. Lấy ĐỊNH làm vành xe. Đó là chánh định. Dùng chánh niệm và chánh tinh tấn nghiêm sức, thì thành bánh xe (luân). Đây thuộc Tiểu thừa. Sơ giáo đồng với đây.
b. Chỉ lấy trí vô phân biệt làm thể của pháp luân, lấy chân lý làm tánh. Đây thuộc Chung giáo.
c. Lý trí đều mất, giáo quả cũng không, lìa ngôn dứt nghĩ , lấy đó làm thể của pháp luân. Đây thuộc Đốn giáo.
d. Nhiếp thông vô tận pháp giới. Nghĩa là, nhân, pháp, giáo, nghĩa v.v… tất cả các pháp môn hải tự tại đều là thể của pháp luân, như lưới châu của trời Đế Thích, trùng trùng đầy đủ chủ bạn v.v… Đây thuộc Viên giáo. Nhiếp luôn các vị trước. Trong đó đều đầy đủ thì thuộc Đồng giáo.
3. Chủng loại : Có ba.
A. Tiểu thừa pháp luân : Tứ đế của Tiểu thừa đều có bốn nghĩa :
1/ Khổ, không, vô thường, vô ngã. Bốn thứ này là khổ đế.
2/ Nhân, tập, hữu, duyên. Bốn thứ này là tập đế.
3/ Diệt, chỉ, diệu, ly. Bốn thứ này là diệt đế.
4/ Đạo, như, tích, thừa. Bốn thứ này là đạo đế.
16 thứ đó thuộc về sở tri đế.
Nếu nhắm vào năng tri mà nói, thì mỗi thứ cũng có bốn :
1/ Nhãn : Tổng quán khổ v.v...
2/ Trí : Biệt quán khổ v.v… ở quá khứ.
3/ Minh : Biệt quán khổ v.v… ở vị lai.
4/ Giác : Biệt quán khổ v.v... trong hiện tại.
Cho nên, Tứ đế mỗi thứ có 4 mà thành 16. Luận Tân Đại Tỳ-bà-sa q.79 nói: “Nhãn, là pháp trí nhẫn. Trí, là chư pháp trí. Minh, là chủng trí nhẫn. Giác, là chư loại trí. Lại, nhãn là nghĩa quán thấy. Trí là nghĩa quyết đoạn. Minh là nghĩa chiếu liễu. Giác là nghĩa tỉnh xét”. Tam chuyển thì từ 16 thành 48 hạnh pháp luân. Đây thuộc Tiểu thừa. Luận Tỳ-bà-sa nói đầy đủ.
B. Tam thừa pháp luân : Trong Tam thừa, PHÁP LUÂN có ba nghĩa :
1/ Đồng với Tứ đế tam chuyển của Tiểu thừa, lợi ích cho cả ba loại căn cơ, như kinh Mật Tích đã nói. Đây tuy thuyết Tứ đế mà đủ cả Tam thừa. Ngoài ra, tam chuyển còn là không, thường, tịnh. Kinh Duy Ma nói: “Tam chuyển pháp luân nơi Đại thiên, luân đó xưa nay thường thanh tịnh” là nghĩa này vậy. Đây thuộc Sơ giáo.
2/ Chỉ thuyết Đại thừa, nhưng chung cho cả ba loại căn cơ. Được đại tiểu quả, như trong các kinh Đại thừa đã nói. Có khi phân thành ba loại pháp luân như Chuyển pháp luân, Chiếu pháp luân và Trì pháp luân. Có khi hợp làm một, là thật đế duy nhất. Đây thuộc Chung giáo.
3/ Ly ngôn pháp luân : Không có chuyển hay không chuyển. Cũng không phải bốn, ba hay một, vì không thể nói. Đây thuộc Đốn giáo.
B. Nhất thừa pháp luân : Theo văn sau thì có 10 đế sai biệt. Đó là Thuyết thành đế v.v... Các đế này mỗi đế có 10 hạnh. Đó là cụ túc, thanh tịnh, tứ vô úy v.v… Cho nên tổng lại có đến 100 hạnh pháp.
LUÂN, theo văn sau cũng có 10. Đó là Quá khứ nguyện lực cố v.v… Nếu thập chuyển thì 100 hạnh thành 1000 pháp luân. Văn sau sẽ nói đầy đủ.
Vì sao đều nói 10? Vì muốn hiển vô tận. Chính pháp giới vô tận này là đại pháp luân hải, thường chuyển không dứt.
4. Chuyển tướng :
A. Tiểu thừa : Tam chuyển có hai :
1/ Tự chuyển : Đầu tiên là chuyển ở vị kiến đạo, gọi là Ấn tướng chuyển. Kế là chuyển ở vị tu đạo, gọi là Ứng tác chuyển. Sau là chuyển ở vị vô học đạo, gọi là Dĩ tác chuyển.
2/ Tha chuyển : Đầu, gọi là Thị tướng chuyển, là chỉ rõ đây là khổ v.v… khiến các thứ đó hiển bày, mà vào kiến đạo. Kế, gọi là Khuyến tri chuyển, là khuyên khổ nên biết, tập nên đoạn, diệt nên chứng, đạo nên tu, khiến người tu đạo. Sau, gọi là Dẫn chứng chuyển, là khổ ta đã biết … cho đến đạo ta đã tu, khiến người nhập vô học đạo.
B. Tam thừa : Tam chuyển cũng có hai loại như trên, nhưng nghĩa lý thì có khác. Nếu là hàng Bồ-tát, thì y cứ theo kinh Đại Phẩm v.v… đã nói: “Nơi vườn Lộc Uyển, khi chuyển pháp luân có vô lượng chúng sinh phát tâm bồ-đề … vô lượng Bồ-tát vào Sơ địa ... vô lượng Bồ-tát nhất sinh bổ xứ nhất thời thành Phật”. Đây cũng tương ưng với Tam chuyển trên, là thông chẳng phải biệt, không thể phối riêng.
C. Nhất thừa : Chuyển vô tận, tương ưng với pháp giới pháp luân, đồng một pháp giới với các căn cơ được gia bị, không hai không khác. Pháp nhĩ thường hằng, không dứt thuyết giáo làm lợi ích cho chúng sinh là chỗ này.
5. Phần hạn :
A. Tiểu thừa : Có một nghĩa. Phật thuyết Tứ đế là khổ, vô thường v.v… thì ngữ âm nhiếp thuộc pháp luân. Nếu là các loại ngữ ngôn thế gian, như hỏi A-nan, mưa trời v.v…, thì không phải pháp luân.
B. Tam thừa : Tất cả thân tướng uy nghi cùng với ngữ ngôn của Phật đều nhập pháp luân. Vì không gì không có lợi ích cho chúng sinh. Kinh Duy Ma nói: “Uy nghi của chư Phật, tới hay lui, không gì không phải là Phật sự”.
C. Nhất thừa : Tam thế gian đều nhập pháp luân. Tất cả ngữ ngôn, âm thanh của chúng sinh đều nhập pháp luân. Quốc độ pháp luân như quốc độ thuyết v.v… cứ theo đó mà hiểu.
6. Chuyển xứ :
A. Tiểu thừa : Chỉ có một Sa-bà với trăm ức chỗ như ở vườn Lộc Uyển v.v…
B. Tam thừa : Hoặc một trăm ức, hoặc ngàn trăm ức, hoặc như cát sông Hằng là một Phật hóa cảnh.
C. Nhất thừa : Thông khắp các giới như cây, hình v.v… Cho đến Liên Hoa tạng trùng trùng chủ bạn như lưới châu của trời Đế Thích. Kinh nói: “Đây là chỗ Phật Lô-xá-na thường chuyển pháp luân”.
7. Chuyển thời :
A. Tiểu thừa và Tam thừa : Có khi là hai tuần, có khi ba tuần. Sau, hoặc sáu tuần hoặc bảy tuần hoặc tám tuần, hoặc năm mươi tuần hoặc một năm v.v… Đây đều do mạt giáo, tùy căn cơ mà thấy nghe có khác. Cũng không có các sự trước sau tương nhiếp.
B. Nhất thừa : Là bản giáo, chủ yếu là ở tuần thứ hai thời đầu, hoàn toàn không có thuyết khác. Nhiếp vô lượng kiếp trước sau, niệm niệm không gián đoạn. Trong mỗi niệm đều nhiếp hết vô lượng kiếp mé trước mé sau, trùng trùng vô tận như lưới châu trời Đế Thích. Chín đời, mười đời là sở chuyển.
8. Chuyển nhân : Trước chủ sau bạn.
A. Tiểu thừa : Chủ là Thích Ca, là Phật sinh thân và hóa thân. Đệ tử Thanh văn là bạn.
B. Tam thừa : Chủ là tam thân Phật. Thanh văn, Bồ-tát là bạn, như Xá-lợi-phất v.v…
C. Nhất thừa : Chủ là thập thân Lô-xá-na. Bồ-tát Phổ Hiền v.v… là bạn, trùng trùng hiện như lưới châu trời Đế Thích.
9. Chuyển cơ : Đầu tiên chỉ có căn cơ Tiểu thừa. Kế là trùm hết ba loại căn cơ. Sau, chỉ có một loại phổ cơ.
10. Các môn :
1/ Nhân của pháp luân : Giáo, niệm xứ v.v… Do những nhân này mà được thánh đạo.
2/ Quyến thuộc pháp luân : Phước tuệ và vạn hạnh.
3/ Cảnh pháp luân : Hai đế chân tục.
4/ Sở đoạn pháp luân : Hai chướng sử và tập.
5/ Quả pháp luân : Bồ-đề niết bàn.
Các tông đều y theo đó.
2/2 Giải thích văn tụng : 10 bài kệ phân làm bốn.
Kệ (1) (2) (3) : Nói Phật pháp luân thanh tịnh và quảng đại.
Kệ (1) : Câu (1) nói về giáo chủ. Câu (2) nói về pháp luân thanh tịnh. Nói THANH TỊNH, vì diệt hoặc nhiễm, vì hiện tịnh lý, vì giáo luân tịnh, như bảo luân của Phạm thiên. Phần sau là nói về sự QUẢNG ĐẠI của pháp luân, tự có 6 môn : Câu (3) là xảo thuyết quảng đại. Câu (4) là người thuyết quảng đại.
Kệ (2) : Câu (1) (2) : Xứ thuyết quảng đại. Trong đó, nêu cả quốc độ hải và thế giới hải, vì cả hai nương nhau mà thành. Câu (3) (4) : Nhân (因) thuyết quảng đại. Vì do đại nguyện lực thuyết tận đến mé vị lai. Cũng gọi là thời thuyết quảng đại.
Kệ (3) : Câu (1) (2) là căn cơ quảng đại. Câu (3) (4) là ngôn âm quảng đại.
Kệ (4) (5) : Tán thán Phổ Hiền có thể thuyết pháp trùm khắp.
Kệ (4) : Được Phật lực gia trì nên khiến ngữ nghiệp trùm khắp.
Kệ (5) : Thân nghiệp khế lý nên khiến mưa pháp trùm khắp.
Kệ (6) (7) (8) : Tán thán Phật Lô-xá-na thuyết pháp.
Kệ (6) : Ngữ nghiệp.
Kệ (7) : Ý nghiệp xuất quang minh.
Kệ (8) : Thân nghiệp.
Kệ (9) (10) : Tán thán Phật ba đời cũng đồng thuyết pháp.
Kệ (9) : Khiến được thấy thuyết pháp.
Kệ (10) : Khiến được nghe thuyết pháp.
KẾT THÔNG : Câu kết “Tứ thiên hạ … cũng lại như thế” có hai nghĩa :
1/ Chúng vân tập thông hết mười phương giới.
2/ Đang thị pháp, sau lại kết thông, thì biết thị pháp cũng thông hết mười phương.
B3. PHÁP CHỦ NHẬP ĐỊNH
Có hai : Phân biệt ở các hội và giải thích văn kinh
1. PHÂN BIỆT Ở CÁC HỘI : Có bốn.
1/ Có - không : Chỉ có hội II là không có, vì pháp sở biểu chưa thành vị. Các hội còn lại, sở biểu đều thành vị.
2/ Xuất - không xuất : Chỉ có hội VIII là không xuất, vì biểu trưng một khi đã chứng pháp giới thì không còn thối thất. Các hội còn lại biểu trưng cho khởi dụng nhiếp hóa.
3/ Nhân - quả : Hội I, VII, VIII là quả định. Vì hội I thuyết về quả. Hội VII là hạnh sâu, hội VIII là chứng cái huyền nhiệm. Các hội còn lại đều thuyết về nhân. Cũng có thể giải thích : Hội VII dùng chung cho nghĩa hữu nhân, vì Hoa tạng là do nhân hạnh thành tựu trang nghiêm. Theo đó phân biệt thì có bốn câu :
. Hoặc chỉ có quả : Hội I và hội VIII.
. Hoặc chỉ có nhân : Hội III, IV, V và VI.
. Hoặc vừa nhân vừa quả : Hội VII.
. Hoặc không nhân cũng không quả : Hội II. Tất cả đều không.
4/ Người năng nhập : Chỉ có ở hội VIII là Phật tự nhập. Biểu trưng pháp giới giải thoát tự tại chỉ có Phật là cùng triệt. Mới vào chỉ nói đến quả, để người sinh lòng tin. Hội VII, hạnh tuy thâm sâu nhưng là hạnh của người đang còn ở nhân địa tu hành.
2. GIẢI THÍCH VĂN : Đầu tiên là tại thế giới này. Sau là kết thông.
1. Tại thế giới này : Đoạn “Lúc ấy Bồ-tát Phổ Hiền … như hư không”.
Ở TRƯỚC NHƯ LAI, NGỒI là muốn hiển nhân quả không lìa nhau. Vì sao lại nhập định? Vì muốn nói không chứng đắc thì không thuyết pháp, vì nhận sự gia trì, vì trừ nghi cho đại chúng. Vì sao nhập quả định? Vì thuyết về quả pháp. Vì sao đang ở nhân địa tu hành mà nhập định? Vì gia trì cho kẻ đang tu nhân.
TỊNH có bốn nghĩa : 1/Tự tánh tịnh. 2/Trị hoặc tịnh. 3/Thiện căn tịnh. 4/Ích dụng tịnh.
TẠNG có bốn nghĩa : 1/Hàm nhiếp. 2/Tích nhóm. 3/Xuất sinh. 4/Vô tận.
TAM-MUỘI, đây gọi là ĐẲNG TRÌ, vì lìa chìm nổi. Vì định tuệ quân bình nên nói ĐẲNG. Vì tâm không tán loạn, chuyên chú một cảnh, nên nói TRÌ. Nạp pháp tại tâm, nên nói CHÁNH THOï. Trong đó, tịnh thuộc tạng, tịnh tức là tạng, TỊNH TẠNG thuộc Như Lai, Như Lai tức là tịnh tạng. Tam-muội thuộc tịnh tạng, tam-muội tức là tịnh tạng, nên đều thuộc hai cách giải thích là Y chủ và Trì nghiệp. Suy nghĩ thì có thể thấy.
Sau là giải thích để hiển nghĩa.
Câu “Chiếu khắp các thân Như Lai …” là giải thích nghĩa NHƯ LAI.
Câu “Lìa cấu uế, … ” là giải thích nghĩa TỊNH TẠNG : LÌA CẤU UẾ là tịnh, ĐỦ ĐẦY là tạng. HƯ KHÔNG ví cho hai thứ đó.
2. Kết thông : Đoạn “Bồ tát Phổ Hiền … Phật độ cũng như vậy”.
Kinh này, tất cả chỗ đều thuyết, tổng thành một bộ. Nghĩa là, một bộ tức là tất cả bộ. Nay nêu sự ở một phương này, vì sợ bỏ mất bộ gốc của nó. Thường, phần cuối của kinh đều tổng thu kết thành bộ gốc để rõ vô tận và vô tận. Nhân đó, lược sơ về các tam-muội đã nhập và phần hạn sai biệt. Có 10 lớp :
1/ Tất cả định vô ngại : Như trong phần hiện khởi nói: “Bồ-tát Phổ Hiền từ tam-muội khởi, từ nơi thế giới trần số các tam-muội khởi”. Giải thích : Đây có hai nghĩa :
a. Định này hàm nhiếp nhiều tam-muội.
b. Định này vào khắp các tam-muội.
Cho nên, định này chính là thế giới trần số tam-muội hải.
2/ Tất cả xứ vô ngại : Văn kinh nói: “Bồ-tát Phổ Hiền nhập tam-muội chánh thọ ở thế giới này mà khắp hết pháp giới, hư không giới v.v… Tất cả Phật độ cũng như vậy”. Đây có hai nghĩa :
a. Định này bao hàm quốc độ ở mười phương.
b. Định này khắp hết các trần đạo.
3/ Tất cả thời vô ngại : Như phần hiện khởi nói, Phổ Hiền từ nơi “Tất cả tam-muội trong ba đời khởi …”. Đây có hai nghĩa :
a. Định này bao hàm cả tam thế.
b. Định này biến khắp tam tế.
4/ Ba lớp trên đây, dung hàm thành một tam-muội vô ngại tự tại của Phổ Hiền, vì ba thuyết này là một định, không lìa nhau.
5/ Trong các tam-muội hải nhiều như bụi trên, cứ một tam-muội đầy đủ liền tất cả tam-muội. Mỗi tam-muội đều trùm khắp mười phương, tận hết ba đời.
6/ Như một tam-muội, tất cả tam-muội cũng vậy.
7/ Cứ trong một hạt bụi, thấy liền tam-muội viên minh của Phổ Hiền. Mỗi tam-muội đều nhiếp khắp mười phương, cũng tận hết tam tế.
8/ Như trong một hạt bụi, tất cả trần đạo cũng như vậy.
9/ Cứ trong một niệm, liền có Phổ Hiền nhập các định nhiều như bụi nhỏ. Mỗi định đều bao hàm trần đạo, khắp hết mười phương quốc độ, tận hết chín đời mười đời.
10/ Như trong một niệm, niệm niệm còn lại cũng tận hết tiền tế hậu tế. Tất cả kiếp hải cũng như vậy.
Lấy 10 lớp trên làm mẫu, tất cả các địa vị khác cùng với giáo, nghĩa, lý, sự v.v… cứ theo đó mà suy. Phần nhập định xong.
B4. CHƯ PHẬT GIA TRÌ :
Đoạn "Bồ-tát Phổ Hiền nhập tam muội này xong... thảy đều hiện..."
Có hai.
1. NÓI VỀ CÁC HỘI : Có hai.
1/ Có - không : Ba hội II,VII, VIII đều không có. Vì các vị ở hội II chưa thành nên không nhập định. Hội VII, hạnh y theo pháp không khác trước. Hội VIII, tự nhập định không nhờ gia trì. Các hội còn lại không như đây, nên đều có.
2/ Phật xa - gần, nhiều - ít, danh hiệu khác : Đều như văn kinh nói.
2. GIẢI THÍCH VĂN KINH : Có ba: 1/Khẩu gia trì và mục đích. 2/Ý gia trì. 3/Thân gia trì. Cũng có thể hiểu : 1/ Lời khuyến phát, dùng lợi ích mà nói. 2/ Ngầm gia bị để tăng trưởng trí tuệ. 3/Xoa đầu khiến giác tỉnh. Gia trì và tán thán nương nhau thành bốn câu:
. Hoặc gia trì mà không tán thán như hai thứ gia trì Phật ý và Phật thân.
. Hoặc tán thán mà không gia trì như kệ tán thán của Bồ-tát.
. Hoặc vừa gia trì vừa tán thán như khẩu nghiệp của Phật.
. Hoặc không gia trì không tán thán như phần văn kinh còn lại.
2a. Khẩu gia trì : Đầu tiên là gia trì và tán thán. Sau là giải thích mục đích.
1. Khẩu gia trì : Đoạn “Bồ-tát Phổ Hiền nhập … ”. Phân làm ba :
a. Câu “Bồ-tát Phổ Hiền nhập … đều hiện” : Chư Phật không rời bản quốc mà hiện thân tại thế giơi này. Để thấy, kia tức là đây mà không hoại kia, xa tức là gần mà không hoại xa. Cứ theo tánh duyên khởi mà hiểu.
b. Câu “Các Như Lai đó đều ... chánh thọ này” : Tán thán được thâm định.
c. “Đều là nhờ … của chư Phật” : Nói rõ về cái nhân của thâm định. Trước là tha lực. Sau là tự lực. Cũng là quả lực và nhân lực duyên khởi hợp thành. BẢN NGUYỆN CỦA PHẬT, là nói Phật xưa kia từng thấy việc này, nhân đó phát nguyện, nguyện nay thành tựu.
2. Giải thích mục đích : Vì nghĩa gì mà gia trì? Vì thuyết pháp này.
Đoạn “Đó là … của chúng sinh” có 10 câu:
A. Tổng : Câu (1) là tối sơ chuyển pháp luân Nhất thừa. Vì là quả pháp luân nên nói PHẬT.
B. Biệt : 9 câu sau.
Câu (2) : Nghĩa sở chuyển, là thể của pháp luân. KHAI giống như HIỆN.
Câu (3) : Khéo chuyển tận nguồn, là tướng pháp luân. VÀ MƯỜI PHƯƠNG, là xứ kết thông.
Câu (4) : Khéo trừ hoặc chướng, là dụng của pháp luân.
Câu (5) : Mười phương đều là xứ chuyển pháp luân, cũng cùng khắp Phật độ hải.
Câu (6) : Phần hạn chuyển nhân nhập quả pháp luân.
Câu (7) : Một môn nhiếp tất cả quả công đức pháp luân.
Câu (8) : Khéo được lạc quả là cảnh pháp luân.
Câu (9) : Khéo thuận thế tục là phương tiện pháp luân.
Câu (10) : Xét căn cơ để truyền pháp là sở bị pháp luân.
Các thứ đồng, dị, thành, hoại, cứ theo đó mà hiểu.
2b. Ý gia trì : Đoạn “Lúc ấy tất cả … tam-muội này”. Trước là gia trì. Sau, giải thích.
1. Gia trì : Câu đầu là tổng. 10 câu sau là biệt :
Câu (2) : Đắc pháp trí : Vì 5 hải trí không phải một, nên nói VÔ LƯỢNG …
Câu (3) : Tận biên trí : Cùng tận 5 hải, bao hết tam tế Phật.
Câu (4) : Thành hoại trí : 5 hải tụ tán, cũng là thế giới hải.
Câu (5) : Sở hóa trí : 5 hải nói ở mặt nhiễm, cũng là chúng sinh hải
Câu (6) : Lý trí : 5 hải đều thâm sâu, cũng là pháp giới hải.
Câu (7) : Tam-muội trí : 5 hải đều là định cảnh.
Câu (8) : Căn dục trí.
Câu (9) : Ngữ biện trí.
Câu (10) : Thân biến trí.
Câu (11) : Viên âm trí.
Đây đều thông hết 5 hải, cứ theo đó mà hiểu, đồng với 10 trí đại sau.
2. Giải thích : Trước hỏi, sau giải thích.
Hỏi : Chư Phật có lực dụng, có bi tâm, vì sao chỉ gia trì Phổ Hiền mà không gia trì các Bồ-tát khác?
Đáp : Vì là trưởng tử, vì là thủ chúng, vì tột nguồn Phật nguyện, vì bản nguyện, vì phổ đức đủ đầy, vì được định pháp, vì các hạng khác không được định. Lại, phàm chỗ nào có định này, pháp nhĩ của chư Phật đều tụ đó, như biển pháp nhĩ thu nhiếp các dòng chảy, nên gọi là PHÁP. Lý của pháp môn Duyên khởi luôn như thế. Cho nên, trí dức và đoạn đức của chư Phật cũng được CHO người.
Hỏi : Phật sao không tự thuyết?
Đáp : Có hai ý :
1. Giáo thuyết huyền diệu, e hàng Bồ-tát đang ở nhân địa tu hành không có phần.
Nếu vậy, sao không phải là người khác thuyết? Vì thuyết phổ pháp.
2. Phàm, thuyết pháp này thì nhất định có đủ tất cả chư Phật đồng thuyết. Nếu Phật tự thuyết thì lý ra không có gia trì và truyền trao, liền trái với việc đồng thuyết. Cho nên, Phổ Hiền một khi đã thuyết, tức tất cả Phật đồng thuyết.
2c. Thân gia trì : Câu “Lúc đó chư Phật … Phổ Hiền”. Vì sao xoa đầu? Vì khiến giác tỉnh, vì khiến có đủ Phật uy đức. Tuy vậy, Phật thân không hẳn đã đến đây, duỗi tay nhưng không hẳn đã dài ra, chạm đầu nhưng không hẳn đã chạm nhau, đều đồng thời xoa không có trước sau, đều là duyên khởi tự tại vô ngại.
Phần Gia Trì xong.
B5. ĐẠI CHÚNG ĐỒNG THỈNH
Đoạn "Tất cả Bồ-tát thấy chư Phật mười phương... ". Có hai
TRƯỜNG HÀNG
Có hai : Trước, vì lạ nên không thuyết ngay mà có phần thỉnh sau. Cũng có đủ hai phần thân và ý nghiệp. Đó là thân cung kính và ý quán sát. Cả hai luôn trong tình trạng nhất tâm. Sau, là chánh ngữ nghiệp. Phần chánh ngữ này so với phần thỉnh trên có gì sai biệt? Đây chỉ thỉnh riêng Phổ Hiền, vì đã biết người chủ thuyết pháp. Lại, đây có đủ hai chúng mới và cũ. Nên không đồng trước. Pháp được hỏi không khác trước, nên không nói riêng.
TRÙNG TỤNG
Gồm 10 bài kệ. Phân làm ba. 8 kệ đầu tán thán pháp chủ. Bài kế nêu pháp sở thuyết. Bài cuối tán thán đại chúng muốn nghe.
1a. Tán thán pháp chủ
Kệ (1) (2) (3) (4) (5) : Tán thán chung công đức của Phổ Hiền.
Kệ (6) (7) (8) : Tán thán riêng công đức thuyết pháp. Cũng chính là : Trước, thì tán thán hữu thuyết nhân. Sau là tán thán hữu thuyết quả.
1. Tán thán chung : Lược nêu 10 loại công đức của Phổ Hiền.
Kệ (1) : 1/ Nhân hạnh nguyện viên mãn.
2/ Quả đức bình đẳng.
Kệ (2) : 3/ Sắc thân biến khắp.
4/ Phúc trí rộng sâu.
Kệ (3) : 5/ Thấy khắp Phật hải.
6/ Hiện các trần sát.
Kệ (4) : 7/ Trùm hết thời và xứ.
8/ Thâm định thường hiện.
Kệ (5) : 9/ Thể đầy khắp pháp giới. Đây thuộc trí.
10/ Dụng đầy khắp chúng sinh hải. Đây thuộc bi.
10 loại công đức này nhiếp thành 5 đối : 1/Nhân và quả. 2/Thân và trí. 3/Thấy và hiện. 4/Sâu và rộng. 5/Thể và dụng.
2. Tán thán riêng :
Kệ (6) : Tán thán chứng và đoạn là cái nhân khiến BIẾN KHẮP và THUYẾT RỘNG. Câu (1) là chứng lý. Câu (2) là đoạn chướng. Câu (3) là biến khắp. Câu (4) là thuyết rộng.
Kệ (7) : Tán thán cái nhân trong ngoài có thể làm lợi ích và khéo thuyết. Câu (1) tán thán chỗ nội chứng của Phổ Hiền, là tất cả Phật công đức hải đồng sinh. Câu (2) tán thán ngoài thì phóng quang vân thuyết pháp cùng khắp. Câu (3) tán thán có thể lợi ích chúng sinh, kiên trì với tịnh hạnh của mình. Câu (4) là nhờ đó mà có thể khéo thuyết Phật cảnh.
Kệ (8) : Tán thán thâm hạnh là cái nhân khiến thuyết pháp như mây như mưa.
Trong ba bài kệ này, nếu xét về năng thuyết thì kệ (1) là thuyết rộng, kệ (2) là khéo thuyết, kệ (3) là đốn thuyết. Nếu xét về sở thuyết thì kệ (1) là Phật pháp, kệ (2) là Phật cảnh, kệ (3) là pháp giới.
1b. Pháp sở thuyết: Kệ (9) nói về pháp được thuyết. Câu (1) tổng nêu Hoa tạng giới v.v… ở văn sau. Câu (2) nêu Phật nghiêm tịnh v.v… ở văn sau. Câu (3) Năng nhập là Phật hải, pháp giới hải đó. Sở nhập là chúng sinh hải và căn dục hải. Câu (4) Kết thỉnh.
1c. Tán thán đại chúng muốn nghe: Có hai đức khiến nghe hiểu là ưa thích và căn khí.
1/ Ưa thích : Có hai ý :
1/ Thân lìa kiêu mạn giải đãi, nên nói CUNG KÍNH.
2/ Tâm lìa dị tưởng, nên nói QUÁN PHỔ HIỀN.
2/ Căn khí :
Tuy một lòng thích nghe, nhưng nếu không có trí tuệ cũng không thể lãnh thọ. Đây cũng có hai ý : 1/ Thâm trí đạt thâm lý. 2/ Trí rộng soi sự rộng.
Câu (4) là kết thỉnh : Nguyện Phổ Hiền thuyết pháp.
Phần Đại Chúng Đồng Thỉnh xong.
B.6 TRONG ĐỊNH LƯỢC THUYẾT
Trước, là quán 5 hải. Sau, thuyết về thập trí. Trước, là cảnh sở quán. Sau, là trí năng quán. Trước là chứng bản. Sau là giáo bản. Vì sao không xuất định mà thuyết? Vì định không ngại dụng, vì muốn hiển pháp thậm thâm, vì định và dụng đồng hành.
1. Quán ngũ hải : Có hai :
1. Cảnh giới hải thậm thâm : Cái quán này không do tự lực.
2. Chánh quán tỉ mỉ 5 hải : Có 10 môn.
1/ Nghĩa tướng : Trong tánh hải tạng viên minh vô tận, phân thành 5 nghĩa.
1. Nghĩa sở y : Chung cho tất cả. Theo đó mà hiểu.
2. Nghĩa minh phát cũng là nghĩa tích tụ.
3. Nghĩa quĩ dụng.
4/ Nghĩa xảo biệt, nghĩa tánh biệt.
5/ Nghĩa giác viên.
5 nghĩa trên, cứ có một nghĩa liền đầy đủ bốn nghĩa còn lại, đều sâu rộng vô tận và công đức đầy đủ khó nghĩ bàn, nên nói HẢI.
2/ Nhiễm tịnh : Có hai :
1. Biệt : Hoặc chỉ có tịnh, là PHẬT HẢI. Hoặc chỉ có nhiễm, là CHÚNG SINH HẢI. Hoặc cả nhiễm tịnh, là THẾ GIỚI HẢI và CĂN DỤC HẢI. Hoặc nhiễm tịnh đều không, là PHÁP GIỚI HẢI.
2. Thông : Hoặc đều tịnh, vì chúng sinh cũng ngược dòng hoàn tịnh, vì bản tánh vốn tịnh. Hoặc đều nhiễm, vì Phật cũng tùy duyên. Hoặc đủ cả hai hoặc cả hai đều mất, cứ theo đó mà hiểu.
3/ Lý sự : Cũng lấy 4 câu nhiếp hết, có thể tự hiểu.
4/ Nhân pháp : Có hai.
1. Biệt : CHÚNG SINH HẢI và PHẬT HẢI là nhân. PHÁP GIỚI HẢI là pháp. CĂN DỤC HẢI vừa là nhân vừa là pháp. THẾ GIỚI HẢI thì không nhân cũng không pháp.
2. Thông : Nhiếp hết trong bốn câu, có thể tự hiểu.
5/ Nhân quả : Có hai.
1. Biệt : Cũng có bốn câu. Trong THẾ GIỚI HẢI, nhân và quả đều đủ. Trong PHÁP GIỚI HẢI, nhân và quả đều không. Hai câu còn lại tự hiểu.
2. Thông : Cũng có bốn câu, cứ theo đó mà suy.
6/ Tam thế gian
7/ Cảnh trí.
8/ Y chánh.
9/ Tam bảo.
4 môn này đều có bốn câu thông, biệt … Cứ theo đó mà suy.
10/ Dung nhiếp : Có hai.
1. Thế giới hải :
. Thế giới hải tức là chúng sinh hải, như chúng sinh hình thế giới nói ở văn sau.
. Thế giới hải tức là pháp giới hải, như pháp giới Liên Hoa thế giới hải bất khả hoại.
. Thế giới hải tức là căn dục hải, như tâm tạo ra thế giới.
. Thế giới hải tức là Phật hải, như thân quốc độ.
2. Chúng sinh hải :
. Chúng sinh hải tức là thế giới hải, như trước nói.
. Chúng sinh hải tức là pháp giới hải, như kinh nói: “Ngay nơi pháp giới này mà lưu chuyển ngũ đạo, gọi là chúng sinh”.
. Chúng sinh hải tức là căn dục hải, vì do tâm tâm sở tạo ra.
. Chúng sinh hải tức là Phật hải, vì thân chúng sinh ở trong thập thân, vì chúng sinh tức là chân.
3 hải còn lại, mỗi hải đều đủ các hải khác. Suy nghĩ sẽ thấy.
2. Thập trí : Có hai.
1. Biệt : 3 trí đầu là trí của 3 hải trước. 7 trí sau là trí của 2 hải sau.
2. Thông : Một trí có 5 hải. Một hải có 10 trí. Dung lại mà nhiếp. 5 hải thâm huyền, lấy số nửa mà thuyết để dễ tin. Thập trí khá thô, dùng số 10 mà thuyết để hiểu cội gốc của nó. Cho nên, cảnh trí không hai nhưng vì thô diệu mà hằng khác. Đây thuộc Nhất thừa. Kinh Giải Thâm Mật nói: “Sở hành Như Lai và cảnh giới Như Lai khác nhau ra sao? Phật nói, sở hành Như Lai là Nhất thiết chủng Như Lai cộng hữu vô lượng công đức, các thứ như thế trang nghiêm thanh tịnh Phật độ. Cảnh giới Như Lai là Nhất thiết chủng ngũ giới sai biệt. Đó là hữu tình giới, thế giới, pháp giới, điều phục giới, điều phục phương tiện giới”. Địa Trì và Du-già gọi 5 thứ đó là Ngũ vô lượng. Vì 5 thứ đó là cảnh giới Như Lai.
Sau thuyết về trí, gọi là trí hồi quán. Đây thuộc Tam thừa.
Hỏi : Đã quán hải, sao không thuyết về hải mà thuyết về trí?
Đáp : Vì hải là cảnh giới chứng. Chứng mà muốn thuyết về nó, chính là thuyết về trí. Như người đến chùa thấy ngọn tháp, huân hình ảnh đó vào tâm mình. Sau về nhà tả lại ngọn tháp là nói hình ảnh trong tâm, không phải chính ngọn tháp kia nữa.
Hỏi : Nếu trong định thuyết được, sau cần gì phải xuất định?
Đáp : Đó là vì y vào pháp. Vì sao? Vì trong định quán hải, là phần cực tế của tâm. Thập trí quán hải, tuy vẫn trong định, nhưng đã thông qua ngôn từ, nên ít tế hơn. Thuyết phần thì cực thô, vì để thành tựu căn cơ chúng sinh. Xuất định là biểu thị việc đó. Đây là thuyết phần lấy trí làm nền tảng. Trí lấy hải làm nền tảng. Vì thuyết y nơi trí mà thành, trí y nơi lý mà khởi.
Phần văn kinh chia làm ba : 1/Nêu trí. 2/Hứa thuyết. 3/Thuyết ý.
PHẬT TỬ, theo Nhiếp Luận có 5 nghĩa :
1/ Nguyện ưa thích Đại thừa làm chủng tử.
2/ Lấy Bát-nhã làm mẹ.
3/ Lấy định làm thai.
4/ Lấy đại bi làm nhủ mẫu.
5/ Lấy chư Phật làm cha.
Cũng có 10 nghĩa như thuyết trong phần Di Lặc tri thức xứ sau.
THẬP TRÍ là :
. Trí (1) : Do THÀNH tức là BẠI, nên THÀNH THANH TỊNH. BẠI cũng như vậy. Do đây liền đầy đủ 9 trí còn lại, nên nói KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN. Cái không thể nghĩ bàn này cũng nói luôn cho 9 trí sau.
. Trí (2) : Vì chúng sinh không và hữu không hai, vì nhiều loại, vì tương tức, vì tương nhập, vì đầy đủ tất cả pháp, vì căn tánh nhiều, nên cũng KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN.
GIỚI, chỉ cho Như Lai Tạng, tùy duyên mà thành chúng sinh, gọi là KHỞI. Lại, KHỞI là tại nơi trí mà khởi.
. Trí (3) : Có 4 câu : Một là hữu vi. Hai là vô vi. Ba là cả vô vi lẫn hữu vi. Bốn là không vô vi cũng không hữu vi. Đều thông cả nhiễm tịnh.
CĂN DỤC nhiếp thuộc hai trí trên, cũng thuộc cả 7 trí sau. Như đã nói ở phần hỏi trên. 7 trí sau nói về Phật hải.
. Trí (4) : Vô ngại.
. Trí (5) : Ứng cơ mà truyền pháp, chuyển pháp luân trùm khắp.
. Trí (6) : Hiển đức.
. Trí (7) : Âm thanh quang minh.
. Trí (8) : Nhiếp thuộc tam luân.
. Trí (9) : Thâm định. Tương tức cùng với thể dụng đều không hoại.
. Trí (10) : Lấy ‘tổng’ kết ‘biệt’.
Bản phần xong.
B7. KHỞI ĐỊNH THÀNH ÍCH : Có hai.
1. Khởi cái định chủ bạn: Đoạn “Lúc ấy Bồ tát Phổ Hiền từ tam muội… ba đời khởi”.
Trên, nói ĐỊNH không ngại DỤNG, nên thuyết thập trí.
Đây, nói DỤNG không ngại ĐỊNH, nên nói KHÔNG HOẠI, là không hoại định kia. Vì sao không hoại? Vì do trí phương tiện. Đã giải thích.
2. Thành lợi ích: Đoạn “Lúc ấy, tất cả chúng … bảo vương” phân làm hai :
A. Nội ích : Phân làm hai.
1. Ích lợi cho chúng tại đó : Có bốn.
1/ Chứng pháp thể.
2/ Y nơi chứng đó, khởi xảo trí.
3/ Y nơi trí đó, khởi diệu thuyết.
4/ Thuyết không đoạn dứt, là do nguyện lực.
2. Kết thông : Hiển sự viên mãn.
B. Ngoại ích : Có ba :
1. Động.
2. Lợi ích : Động, khiến sợ hãi. Ngược với đó, nên LẠC.
AN là thiện nhân, cho quả là LẠC.
Động, khiến hoại diệt. Ngược với đó, nên CÁC BÁU ĐỦ THỨ TRANG NGHIÊM.
3. Mưa báu : Là pháp môn này. Đây ít hơn 10. Tuy nêu 10 mà chỉ kể 7.
B8. MAO QUANG TÁN ĐỨC
TRƯỜNG HÀNG
Đoạn “Tất cả lỗ lông của Như Lai … tụng rằng”, nói về năng gia trì là Phật ở trên. Tán thán công đức của Phổ Hiền, hiển đầy đủ công đức thuyết pháp khiến đại chúng tôn trọng khát ngưỡng, chính là “Quang minh tán thán âm thanh trí” nói trên.
KỆ TỤNG
Gồm 14 bài kệ, phân làm hai :
Kệ (1) đến (8) : Tán thán ba nghiệp rộng lớn của Phổ Hiền, tột bản nguyện Phật.
Kệ (1) (2) (3) : Thân nghiệp.
Nửa kệ (4) : Ngữ nghiệp.
Nửa sau kệ (4), (5), (6) : Ý nghiệp. Nửa kệ (4) và kệ (5) là định. Kệ (6) là huệ.
Kệ (7) (8) : Tột bản nguyện Phật.
Kệ (9) đến (14) : Tán thán thể và dụng ứng cơ trùm khắp, vô ngại.
Kệ (9) : Thể trùm khắp : Thân Phổ Hiền ngồi tại hội này, mà trong vô biên thế giới ở mười phương, mọi người đều thấy Phổ Hiền thường tại thế giới họ. Xưa nay vẫn ở đó mà thân không phân ly, cũng không đến đi. Trong tất cả bụi nhỏ, trong tất cả thân chúng sinh cũng đều như thế. Vì chúng sinh đồng như, chính là Phổ Hiền vậy. Nếu thật là Nhất thừa, thì Phật quốc cũng đồng với Phổ Hiền đầy khắp, là thành tựu thắng dị giải. Nêu quốc độ là nhắm vào lý, nương nơi Tam thừa hiển Nhất thừa. Suy nghĩ thì có thể thấy.
Kệ (10) đến (14) : Nói về dụng.
Kệ (10) : Hiện thân.
Kệ (11) : Hiện pháp.
Kệ (12) : Tịnh nguyện.
Kệ (13) : Chúng sinh.
Kệ (14) : Hiện trí.
B9. HỨA THUYẾT LỆNH HỈ (Hứa thuyết pháp khiến hoan hỉ)
TRƯỜNG HÀNG
Là phần nêu ý : Trước nghe Bản phần sinh hoan hỉ rồi, nay đến phần hứa thuyết, nên nói THÊM HOAN HỈ.
TRÙNG TỤNG
Hiển các hỉ sự. Gồm 10 kệ, phân làm ba.
Kệ (1) (2) và nửa kệ (3) : Nêu công đức giáo hóa của chư Phật siêu tình thức, khó nghĩ lường.
Kệ (1) : Thâm trí thuyết pháp.
Kệ (2) : Trang nghiêm Phật độ, điều phục chúng sinh.
Kệ (3) : Hai câu đầu là thông kết : Năng hóa và sở hóa vô tận, khó lường.
Kệ (3) hai câu sau, đến kệ (8) : Răn chúng khiến họ được thanh tịnh, để có thể làm pháp khí.
Kệ (3) : Hai câu sau, là phân biệt hạng không thể nghe. THÍCH ÁC, là tạo cái nhân ác thú. CHẤP CÁC HỮU, là bày tạo thiện nghiệp, không cầu xuất ly. Câu (4) hiển bày không phải pháp khí.
Kệ (4) : Phải đầy đủ 3 lực mới có thể thành bậc pháp khí : Lực thiện căn đời trước, lực gần thiện tri thức và lực hộ niệm của chư Phật. Câu (4) là kết luận : Chúng sinh đủ ba thứ đó mới được thượng trí.
Kệ (5) : Phải đủ 7 tâm mới có thể nghe pháp : 1/Trực tâm, là tâm LÌA SIỂM KHÚC. 2/TỊNH TÂM, là lìa mong cầu, lỗi lầm v.v... 3/TỪ TÂM, vì lợi vật. 4/BI TÂM, vì cứu sinh. 5/THÂM TÂM, vì tu hành. 6/TÍN TÂM, là thọ nhận thâm pháp. 7/KHÔNG CHÁN ĐỦ, là tâm khao khát, tâm không thỏa mãn. Câu (4) là kết luận : Đủ 7 pháp trên thì nghe pháp này được hoan hỉ vô lượng.
Kệ (4) (5) là 10 môn, nói chung tất cả có thể nghe pháp và thành bậc pháp khí.
Kệ (6) (7) : Nêu riêng về đại chúng đây.
Kệ (6) : Nêu đủ 4 đức có thể biết Phật cảnh : 1/Trụ ở địa Phổ Hiền. 2/Đủ nguyện Phổ Hiền. 3/Hành hạnh Phổ Hiền. 4/Chứng pháp giới không. Câu (4) là kết luận : Đủ 4 đức đó thì biết Phật cảnh.
Kệ (7) : Tán thán đại chúng đây hiện được hai lợi : 1/Hiện tiền thấy Phật. 2/Được phương tiện Phổ Hiền.
Kệ (8) : Thông kết. Những chúng sinh nào nghe được Phật pháp, đều do Phật lực.
Kệ (9) (10) : Nêu pháp và hứa thuyết pháp, khuyên quán để được an lạc.
Kệ (9) : Nêu pháp và khuyên quán : Vì Phật và quốc độ ở trong thân, nên khuyên đại chúng quán nơi lỗ lông.
Kệ (10) : Đầy đủ phổ nhãn mới thấy được pháp này. Câu (4) là hứa thuyết pháp và dạy đại chúng hãy lắng nghe.
Trong phần thập nhãn nói sau, phổ nhãn thứ mười là pháp môn Bình đẳng thấy pháp giới. Luận đủ cả thập nhãn, gọi là PHỔ.
Các tin khác
-
» LÔ XÁ NA - Phẩm 2 (31/03)
-
» LÔ XÁ NA - Phẩm 2 (Phần 1) (31/03)
-
» LÔ XÁ NA - Phẩm 2 (Phần 2b) (31/03)
-
» LÔ XÁ NA - Phẩm 2 (Phần 2 & 3) (31/03)