Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Ký Q3

LÔ XÁ NA - Phẩm 2 (Phần 2 & 3)

Giải thích Liên Hoa tạng thế giới hải

14/07/2017

HOA NGHIÊM KINH THÁM HUYỀN KÝ
QUYỂN 3
PHẬT LÔ-XÁ-NA
Phẩm 2 - Phần 2
(Xem tại đây)
Sa môn Pháp Tạng thuyết
Chân Hiền Tâm việt dịch

Liên Hoa Tạng trang nghiêm thế giới hải có ba loại :

a. Liên Hoa đài tạng thế giới : Tuy trùm khắp pháp giới, nhưng theo căn khí của hàng Bồ-tát đăng địa mà hiện thì có tăng giảm. Y vào đỉnh Sắc giới, chỉ thuyết một giới.

b. Hoa tạng trùm khắp pháp giới : Nói 10 là để hiển cái vô tận, là vô tận các Hoa tạng. Mỗi Hoa tạng đều trùm khắp pháp giới.

c. Thế giới tạp loại như cây, hình v.v… : Mỗi thứ đều có Liên Hoa tạng, đều tương tự như thế giới đó, đều trùm khắp pháp giới. Mỗi thứ đều có mười, vô tận và vô tận.

Trong ba thứ trên. Nói Liên Hoa đài tạng, là ứng vào Nhất thừa Đồng giáo mà nói. Hai thứ sau là ứng vào Biệt giáo mà hiển.

Nay văn kinh đây, y cứ vào thế giới Tu-di sơn mà nói về Hoa tạng. Cho nên, cũng có phong luân, thủy luân tương tợ như thế giới đó, là để dễ tin hiểu, là do ấn cơ mà thành.

A. HIỂN BẢN THẾ GIỚI LÀM CHỖ Y TRÌ

Văn kinh phân làm hai phần : Hiển từng tướng trang nghiêm và tổng kết.

A1. HIỂN TỪNG TƯỚNG TRANG NGHIÊM: Có sáu.

. Hiển phong, thủy, địa, hoa làm chỗ y tựa (sở y) căn bản.

. Trên đất có núi hải trang nghiêm.

. Đất đó ánh hiện trang nghiêm.

. Trên đất có hương thủy hải trang nghiêm.

. Giữa hương thủy hải, có hương giang trang nghiêm.

. Giữa hương giang, có cây báu trang nghiêm.

6 phân đoạn này, mỗi đoạn đều có trường hàng và trùng tụng.

1. Phong, thủy, hoa, địa làm chỗ y tựa căn bản

TRƯỜNG HÀNG

Phân làm 5 : 1/Phong luân nắm giữ vô ngại. 2/Y nơi phong luân có hương thủy hải. 3/Y nơi hương thủy hải có liên hoa. 4/Y nơi liên hoa có Hoa tạng thế giới. 5/Y nơi Hoa tạng có núi bao quanh.

1. Phong luân nắm giữ vô ngại : Phân làm ba. Tổng, biệt, kết.

1a. Tổng : “Có các phong luân … thế giới hải này”.

1b. Biệt: “Phong luân thấp nhất … tất cả hữu”.

7 phong luân đầu đều nắm giữ bảo địa (đất báu). Đây có hai nghĩa :

1/ Trên mỗi phong luân có một bảo địa, cứ theo thứ lớp như thế.

2/ Các bảo địa này đều vây quanh trên Liên Hoa tạng.

Lực của phong luân này, tuy ở môn duyên khởi thì đều khác, nhưng chủ và quyến thuộc thì nhậm trì vô ngại, nên là pháp tánh luân.

PHONG, có hai nghĩa : Vô ngại và hữu lực, nên thành duyên khởi.

BẢO ĐỊA , có hai nghĩa : Đáng quí và y trì.

Các pháp môn nhân pháp, giải hạnh … cứ theo đó mà suy.

Phong luân (8) nắm giữ thời gian. Vì thời gian y nơi pháp mà lập, không có tự thể, nên nói NẮM GIỮ.

Phong luân (9) và (10) cùng với các phong luân nhiều như bụi, nắm giữ nhiều loại thế giới khác nhau. Xứ và sự đều có chủ.

TẤT CẢ HỮU, là chỉ cho 3 hữu v.v… trong các thế giới, cũng chỉ luôn các sự trang nghiêm trên bảo địa này.

Theo nghĩa mà xét, thì 7 phong luân trước, theo thứ lớp đi từ tế đến thô. Nhưng tất cả đều giữ gìn các bảo địa. 3 thứ sau thô dần, nắm giữ 4 thời và 3 hữu v.v… của các thế giới tánh. Trong đó, phong luân tối hạ là siêu vượt, giữ gìn bảo địa trên Liên Hoa. Phong luân tối thượng kế cận, giữ gìn hương hải dưới Liên Hoa. Là hiển trên dưới viên dung, tự tại, vô ngại. Vì khác với biển ở nhiễm độ, mặn và dữ dội, nên nói HƯƠNG THỦY HẢI.

1c. Tổng kết: “Như thế cao nữa … vi trần”.

2. Y nơi phong luân có hương thủy hải

HƯƠNG , có hai nghĩa là xông khắp và thơm phức.

THỦY, có hai nghĩa là trong sạch và tẩy rửa.

HẢI, có hai nghĩa là sâu rộng và đầy đủ công đức. Hoặc có mười nghĩa, như nói ở văn kinh sau.

TẤT CẢ, vì đầy đủ chủ bạn.

3. Y nơi hương thủy hải có liên hoa

Câu nói về LIÊN HOA, có hai phần :

a. Phần đầu, biện về nghĩa ĐẠI LIÊN HOA : Theo Lương Nhiếp Luận, Đại liên hoa có 4 nghĩa :

. Như hoa sen của thế gian, tại bùn mà không nhơ. Dụ cho pháp giới chân như tại thế gian mà không bị pháp thế gian làm nhơ.

. Như tánh hoa sen tự khai nở. Dụ cho tự tánh chân như khai ngộ. Chúng sinh nếu chứng được thì tự tánh khai mở.

. Như hoa sen bị đàn ong hút mật. Dụ cho chân như là chỗ dụng của chư thánh.

. Như hoa sen có bốn đức : Có hương, sạch, nhu nhuyến và đáng yêu. Dụ cho bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh của chân như.

Các thứ này đều mang nghĩa y chỉ. Lương Nhiếp Luận lại nhắm vào nghĩa thứ nhất mà giải thích là nguyện lực sở cảm của Như Lai. Đại bảo liên hoa vương là chỗ y chỉ cho cõi tịnh độ. Tên Hoa tạng là nhân đó mà lập.

b. Phần sau, nói về HƯƠNG TRÀNG QUANG MINH TRANG NGHIÊM, là theo nghĩa mà đặt tên. Tên đó có 4 nghĩa :

. HƯƠNG, có hai nghĩa : Nếu thuộc thể, là nghĩa dày đặc. Nếu thuộc dụng, là nghĩa xông khắp.

. TRÀNG (cờ), có hai nghĩa : Nếu thuộc thể, là nghĩa độc xuất. Nếu thuộc dụng, là nghĩa hàng phục, như cờ của trời Đế Thích.

. QUANG MINH, có hai nghĩa : Phá tối và hiện pháp.

. TRANG NGHIÊM, có hai nghĩa : Đầy đủ công đức và trang sức lẫn nhau.

Trong đó, hương tức là tràng, hương tràng tức là quang minh, quang minh tức là trang nghiêm, đều thuộc Trì nghiệp thích, cũng thuộc Y chủ thích.

Nói về sở trì, có hai câu : Phần (4) và (5) nói sau.

4. Y nơi liên hoa có Hoa tạng thế giới

HOA, như đã giải thích trước.

TẠNG, là nghĩa hàm nhiếp, xuất sinh và đầy đủ công đức. Nói chung, có hai nghĩa :

. Quốc độ này hàm nhiếp tất cả các pháp môn như nhân, pháp v.v…

. Quốc độ này hàm nhiếp tất cả các cõi còn lại.

5. Y nơi Hoa tạng có núi bao quanh

. KIM CANG, có hai nghĩa : Cứng chắc và lợi ích.

. SƠN, có hai nghĩa : Cao và tĩnh.

. BAO QUANH, có hai nghĩa : Trong thì nhiếp ích. Ngoài thì phòng địch. Nghĩa là, nhờ kim cang mà địch chướng bên ngoài không thể xâm phạm, công đức bên trong tăng trưởng.

TRÙNG TỤNG

Gồm 20 bài kệ. Phân làm hai. 7 bài đầu, tụng sơ lại phần trường hàng. 13 bài sau, nói về thắng dụng lợi ích.

# Kệ (1) đến kệ (7) : Tụng lại phần trường hàng. Phân làm 5.

Kệ (1) : Nêu thể dụng của quả.

Kệ (2) : Tụng phần “Nêu chủ nói nhân” : Cúng Phật và tịnh phước.

Kệ (3) (4) : Nói về đại nguyện hạnh.

Kệ (5) : Tụng phần “Quả thành” : Phong luân gìn giữ bảo địa.

Kệ (6) (7) : Đại nguyện, là nhân của Phật độ.

Vì nhậm phóng biện tài, nên nói không cần thứ lớp.

# Kệ (8) đến (20) : Thắng dụng lợi ích. Phân làm 2 :

6 bài đầu nói về dụng ích của y báo.

7 bài sau nói về dụng ích của chánh báo.

Kệ (8) đến (13). Phân hai:

Kệ (8) (9) (10) (11) : Nói về thắng dụng.

Kệ (8) : Thế giới quang.

Kệ (9) : Bồ-tát quang.

Kệ (10) : Hoa sắc quang.

Kệ (11) : Tịnh bảo quang.

Đều thuộc pháp quang như trí v.v… nên có thể chiếu khắp pháp giới.

Kệ (12) (13) : Nói về tướng lợi ích.

Kệ (12) : Diệt hoặc thành đức.

Kệ (13) : Nhìn thấy pháp giới như lưới châu trời Đế Thích.

Kệ (14) đến (20) : Phân hai :

Kệ (14) (15) : Nói về thắng dụng.

Kệ (14) : Nói Phật dụng ngoài Liên Hoa tạng.

Kệ (15): Nói Phật dụng trong Liên Hoa tạng. Trong phần châu trước, Bồ-tát đầy khắp mười phương. Đây thì trong Liên Hoa tạng, chư Phật đồng với thế giới chúng sinh. Y và chánh vô ngại.

Kệ (16) đến (20) : Nói về tướng lợi ích.

Kệ (16) : Nêu các căn cơ được lợi ích.

Kệ (17) : Dấy hưng Phổ giáo.

Kệ (18) : Khéo điều phục căn cơ.

Kệ (19) : Khiến trụ nơi tự phần đoạn đức.

Kệ (20) : Khiến được nghe mà thắng tiến trí đức.

Hỏi : Sao không phải là ngữ v.v… của Phật thuyết mà là mây quang minh v.v… thuyết?

Đáp : Vì đây đang nói về dụng của quốc độ.

Hỏi : Nếu vậy, sao lại nói Phật quang v.v…?

Đáp : Vì y và chánh viên dung. Phật cũng chính là quốc độ.

Hỏi : Ý đây đang nói về Hoa tạng giới, sao lại nói các loại hóa dụng khác?

Đáp : Có hai nghĩa : Một, vì đây là dụng của quốc độ, nên tuy nói dụng mà chính là hiển thể. Hai, ngay cái hóa dụng này là chánh và y báo, nên chính là quốc độ.

Hỏi : Vì sao không đồng với trường hàng?

Đáp : Vì trường hàng nêu sơ, trùng tụng hiển rộng.  

2. Có núi hải trang nghiêm    

TRƯỜNG HÀNG

Có 5 câu.

1. Câu “Núi kim … Vương Địa” : Nói về địa danh. Liên Hoa đài diện là bảo vương địa.

2. Câu “ … có tất cả hương thuỷ hải ” : Nói về địa trấn hải.

3. Câu “Tất cả báu …” : Địa tướng đầy đủ công đức.

4. Câu “Đất kim cang dày …” : Địa thể kiên cố.

5. Câu “Xuất sinh tất cả … Thế giới” : Thắng dụng của Liên Hoa địa. Câu đầu, là xuất pháp bảo. Câu sau, là khởi trí chiếu.

TRÙNG TỤNG

Gồm 10 bài kệ. Phân làm 2 :

6 kệ đầu : Các đức trang nghiêm. 4 kệ sau : Pháp hạnh trang nghiêm.

6 kệ đầu : Thể đầy đủ các đức. 4 kệ sau : Diệu dụng tự tại.

6 kệ đầu : Y báo. 4 kệ sau : Chánh báo.

6 kệ đầu : Sự tướng trang nghiêm. 4 kệ sau : Pháp lý trang nghiêm.

6 kệ đầu : Pháp. 4 kệ sau : Nhân.

6 kệ đầu : Tụng phần trường hàng. 4 kệ sau : Nói về dị nghĩa.

Kệ (1) : Nói tổng quát về nhân trang nghiêm.

Kệ (2) (3) : Nói về sơn địa trên.

Kệ (2) : Phần núi, được trang nghiêm bằng bảo luân và hương luân. Còn châu luân và các báu, là chỗ y trụ của chân núi.

Kệ (3) : Câu (1) (2) giải thích phần bảo luân trang nghiêm nói trên. Câu (3) là hương luân. Câu (4) nói về nghĩa trang nghiêm. CHƯỚC-CA-LA là âm Phạn. Đây nói ‘Luân vi sơn ’ (Núi bao quanh).

Kệ (4) : Thể và tướng trang nghiêm. Trước, là thể. Sau, là tướng.

Kệ (5) : Nói về hương thủy hải trên.

Kệ (6) : Nói về thắng dụng của Liên Hoa địa, cũng là bờ mé của hương thủy hải. Trên đất báu có cây báu. Tòa ngồi nơi gốc cây có thân Phật và Bồ-tát.

Kệ (7) : Nói chung về thân và ngữ pháp luân.

Kệ (8) (9) : Nói về thân sắc : Y báo và chánh báo vô ngại.

Kệ (8) : Phật hiện thân trong nhiều vật dụng trang nghiêm.

Kệ (9) : Nhiều Phật hiện thân trong một vật trang nghiêm. ĐIỀU PHỤC CHÚNG SINH, chỉ cho pháp luân. Lại, trong phần hương, hoa, cờ, lộng trước, Bồ-tát đầy khắp pháp giới. Đây, trong cờ báu và cây báu trang nghiêm, các mây Phật thân đầy khắp mười phương. Đều là lấy chánh báo làm y báo.

Kệ (10) : Hiển riêng phần ngữ pháp luân vừa nói. Đây là quốc độ thuyết.

Các thứ trên thông cả tam thế gian, viên dung, vô ngại. Hễ nhập một môn liền đầy đủ tất cả môn. Các thứ này, trường hàng thì nói có thứ lớp, tùy sự mà sinh hiểu. Trùng tụng thì thông hết trước sau, viên thông, vô ngại, thuận với pháp tánh. Trường hàng thì lấy pháp để thành tựu căn cơ. Kệ tụng thì hội cơ qui pháp. Văn gia thường nêu xen kẻ các tướng thiện xảo với nhau.

3. Cõi đó ánh hiện trang nghiêm

TRƯỜNG HÀNG

Có 6 câu.

1. Câu “Có ma-ni …” : Hiển tên báu. Nói TRONG, vì núi là thành ngoài, thế giới ở bên trong. Không phải ngay trong núi, mà nói TRONG.

KHÔNG THỂ PHÁ HOẠI có 4 nghĩa :

a. Thể không thể phá hoại : Vì là ma-ni kim cang.

b. Đức không thể phá hoại : Vì tạng nhiếp các báu đồng tại trong tự. Các báu không phá nhau vì vô tướng, không hình đoạt nhau. Tự cũng không hoại vì không hai.

c. Dụng không thể phá hoại : Vì mưa vật đa đoan, không đoạt nhau.

d. Ánh không thể phá hoại : Vì ánh hiện nhiều thân, không thể đoạt phá. Hiện xứ trùng hiện mà không chướng ngại nhau.

2. Câu “Ánh hiện …” : Nói về về thắng dụng của châu báu. Trong suốt sáng rỡ nên hay hiện. Trong đó ÁNH là năng hiện. Cái lộ ra là sở hiện.

Hỏi : Vì sao không hiện Phật v.v… và các quốc độ khác?

Đáp : Vì các thứ đó không phải sở hóa.

Hỏi : Nếu vậy, sao không hiện tâm niệm?

Đáp : Vì không phải sắc pháp, nên không có nghĩa hiện.

3. Câu “Dùng bảo …” : Dùng liên hoa bằng báu để trang nghiêm. Đây cùng với hai câu đầu, đều là trang nghiêm đại địa.

4. Câu “Tất cả diệu mây …” : Nói về mây trang nghiêm.

5. Câu “Dùng tất cả diệu … ” : Nói về hương trang nghiêm.

6. Câu “Dùng tam thế … ” : Nói về ba đời trang nghiêm, có 4 ý :

. Chư Phật ba đời trang nghiêm Hoa tạng giới cũng như vậy.

. Cái trang nghiêm này đồng với ba đời.

. Tạng thể được trang nghiêm thông cả ba đời.

. Tuy trong hiện đời lấy một hoa trang nghiêm, nhưng do chỗ được trang nghiêm (sở nghiêm) lại đồng, nên thông hết ba đời.

Thì biết, một hoa hay một chuỗi, đều trùm khắp ba đời. Ba đời đều hiện. Mỗi thứ đều đủ quá khứ vị lai, nên bao hết chín đời. DĨ , nghĩa là dùng.

Tuy cõi trang nghiêm chỉ ở trong nhất niệm, nhưng dùng tất cả vật cụ trang nghiêm trong ba đời mà trang nghiêm nó. Tức, sở nghiêm đồng với năng nghiêm, trùm khắp tam tế. Lại, năng sở được trong nhất niệm, nên đủ cả chín đời. Vì tương tức mà còn tương nhập, nên đủ cả mười đời, hiển cái vô tận.

Trong 4 ý giải thích trên, 3 ý sau thù thắng.  

TRÙNG TỤNG

Có 10 bài kệ, phân làm 4 :

Kệ (1) và ½ kệ (2) : Nói về ma-ni bất hoại trên.

½ kệ (2) (3) (4) : Hoa báu trang nghiêm.

Kệ (5) : Mây trang nghiêm.

Kệ (6) (7) (8) (9) (10) : Quốc độ ba đời trang nghiêm.

Kệ (6) : Cõi đất hiện các hạnh trong ba đời.

Kệ (7) : Mỗi một hạt bụi nơi cõi ấy, các quốc độ đều nhập.

Kệ (8) : Bồ-tát thọ dụng trang nghiêm.

Kệ (9) : Phật pháp, thể và dụng trang nghiêm.

Kệ (10) : Đạt được nguyện Phổ Hiền và trí Phật thì có thể vào được nhiều quốc độ.    

4. Có hương hải trang nghiêm

TRƯỜNG HÀNG

Gồm 14 câu.

1. Câu “Lấy tất cả hương …” : Hương báu là bờ.

2. Câu “Có lưới báu …” : Lưới báu phủ che.

3. Câu “Trong đó, đầy ắp … ” : Dòng nước báu.

4. Câu “Các hoa thảy đều …” : Hoa báu nở rộ.

5. Câu “Nước có mùi …” : Nước thơm mùi bột chiên đàn.

6. Câu “Thường xuất ra …” : Xuất ra Phật âm.

7. Câu “Các hương …” : Hương xông ướp là chỉ cho giáo pháp sở cập.

8. Câu “Đường bậc thang …” : Nhập pháp có thứ bậc.

9. Câu “Lan can …” : Phòng ngoại phi, thủ nội đức.

10. Câu “Sóng triều …” : Âm thanh của sóng triều.

11. Câu “Lầu gác …” : Có gác hoa bao bọc chung quanh.

12. Câu “Có thành trì … đầy mặt nước” : Có thành hoa bọc bên ngoài.

13. Câu “Hương của nó …” : Nước đầy mùi hương hoa.

14. Câu “Trang nghiêm bằng …” : Dùng cây hương trang nghiêm.

Tất cả đều là tức sự tức pháp (Ngay sự là pháp).

TRÙNG TỤNG

Gồm 10 kệ.

Kệ (1) : Nói về hải.

Kệ (2) : Nói về bờ.

Kệ (3) : Nói về nước và Phật âm.

Kệ (4) : Nói về bậc thang và lan can.

Kệ (5) : Nói về cây báu.

Kệ (6) : Hoa giăng đầy. PHÂN-ĐÀ-LỢI, đây gọi là bạch liên hoa.

Kệ (7) : Nói về lưới báu.

Kệ (8) : Nói về thành bằng hoa.

Kệ (9) : Thành báu bọc ngoài

Kệ (10) : Nêu nhân để kết luận sự thành tựu.

5. Có hương hà trang nghiêm

TRƯỜNG HÀNG

Có 3 câu.

1. Câu “Có nhiều bảo hoa …” : Hoa phủ che.

2. Câu “Các hương thuỷ hà …” : Xuất xứ của hương thủy hà.

3. Câu “Ma-ni bảo vương …” : Theo dòng.

Vì y báo và chánh báo vô ngại, từ Phật lưu xuất là biểu trưng cho chánh báo, nên xuất ra từ tướng lông trắng giữa hai chặn mày, là giáo hà lưu nhuận, từ trí chứng xuất ra. Giáo mang chân nghĩa nên bảo vương theo dòng mà không mất chân tánh. Tức tùy duyên và bất biến không hai.

TRÙNG TỤNG

Có 10 bài kệ.

Kệ (1) : Nói chung về tướng hương thủy hà.

Kệ (2) : Bờ trang nghiêm.

Kệ (3) : Sóng trên dòng hương thủy.

Kệ (4) : Chỗ đến của dòng xoáy.

Kệ (5) : Xuất ra báu một cách tự nhiên.

Kệ (6) : Thể của hương thủy hà trùm khắp.

Kệ (7) : Lưới báu diễn thuyết nhân địa tu hành.

Kệ (8) : Bên bờ báu nghe quả hạnh.

Kệ (9) : Hương thủy hà gieo nhân đầy khắp.

Kệ (10) : Cội nguồn hương thủy hà theo quả.

6. Có cây báu trang nghiêm (Văn kinh sang phần 3 xem tại đây )

TRƯỜNG HÀNG

Gồm 5 câu.

1. Câu “Tất cả đều … vi diệu” : Nói về thể của cây là pháp vô lậu. Rừng cây v.v… là nghĩa các đức được kiến lập.

2. Câu “Bên trên có nhiều màn …” : Tượng trưng cho đại bi che khắp.

3. Câu “Nguyện lực của tất cả …” : Lực tại nhân đã khởi.

4. Câu “Được Phật hộ niệm”: Được gia trì để thành tựu quả đức.

5. Câu “Dùng sự trang nghiêm …” : Mé trang nghiêm tối cùng.

TRÙNG TỤNG

Gồm 2 bài kệ.

Kệ (1) : Quả hạnh tự tại.

Kệ (2) : Nhân hạnh đã khởi.

Hai bài kệ này cũng nói về cây, vì nhân và pháp vô ngại.

A2. TỔNG KẾT : Đoạn kế “Trong Liên Hoa tạng … vi trần”. Phần tổng kết, vì phần hạn cảnh giới nhiều, nói riêng từng thứ khó hết, nên dùng chữ MỖI để nói chung. Song trong mỗi cảnh, sự trang nghiêm cũng như trong nhiều cảnh, nên nói NHIỀU NHƯ SỐ THẾ GIỚI HẢI VI TRẦN. Lại, trang nghiêm riêng từng thứ thì khó hiển, nên nói chung là THANH TỊNH.

B. HIỂN LẠI NHIỀU LOẠI THẾ GIỚI TÁNH : Đoạn “Trên hương thủy hải …”. Y nơi các hương thủy hải trong Liên Hoa đài vừa nói trên, có các loại thế giới tánh được gìn giữ.

TRƯỜNG HÀNG

Trước là tổng. Sau là biệt.

Trong phần biệt, trước nói về sở y trụ : 6 câu. Sau hiển hình năng y : 9 câu.

THẾ GIỚI TÁNH : Là do tích tụ thế giới thành tánh, tích tụ tánh thành hải … Như từng dẫn luận Đại Trí Độ ra nói. Ngoài ra, phần văn sau của kinh này cũng nói: “Trong thế giới hải có thế giới tánh, trong thế giới tánh có một thế giới …” thì biết, do tích tập mà thành.

Vì sao gọi là TÁNH? Có hai nghĩa :

a. Theo cách giải thích trước : Do các giới thu nhiếp các dòng loại, tích kết mà thành tánh. Như tập lâu thành tánh v.v…

b. Theo cách giải thích sau : Hải v.v… có nghĩa là LÀM NHÂN, nên cũng gọi là tánh.

Hỏi : Tích giới thành tánh, mà giới cũng có nghĩa nhân, sao không gọi giới là tánh?

Đáp : Vì nó không dung kết, nên nghĩa đầu thành thiếu.

Hỏi : Hải trong thập thế giới, theo cách sau, cũng tích tụ thành các giới khác, sao không gọi là tánh?

Đáp : Trước, do thu nhiếp tích tụ, đã có tên TÁNH. Sau, khai triển dị nghĩa, lập hiệu riêng, nên không gọi là tánh nữa.

TRÙNG TỤNG

Gồm 10 bài kệ. Phân làm 4 :

Kệ (1) (2) : Y trụ nơi hình.

Kệ (3) (4) (5) : Nói quốc độ có sắc thanh trang nghiêm, hiển thể đức đầy đủ.

Kệ (6) (7) (8) : Các quốc độ tương tức tương nhập vô ngại, hiển diệu dụng tự tại.

Kệ (9) (10) : Nói về tam thế gian tự tại. Tức hiển thắng dụng của việc nhiếp hóa, y báo và chánh báo vô ngại.  

C. LẶP LẠI 12 PHẬT ĐỘ VÀ 7 THẾ GIỚI TÁNH

TRƯỜNG HÀNG

Đoạn “Hương thủy hải tên Lạc Quang … kệ tụng rằng”. Phân làm 2 : Đầu tiên nói về hải và trên hoa có hải đã nói trước. Sau là nói về việc giữ gìn quốc độ và thế giới tánh.

C1. Hải và trên hoa có hải : Có 12 Phật độ và 7 thế giới tánh. Các bậc Cổ đức giải thích là “Quốc độ ở mười phương, ngoài Hoa tạng giới”. Theo văn kinh đây thì e không như vậy. Vì đã nói hương thủy hải giữ gìn liên hoa, mà hương thủy hải lại ở trong Hoa tạng, thì biết không phải ngoài. Huống văn sau của kinh này còn kết luận tất cả đều thuộc Lô-xá-na, nên nhất định không phải ngoài. Đại ý ở đây chỉ là nói về các hương hải, trong đó lược nêu một hải. Một hải giữ gìn các quốc độ ở mười phương, trong đó lược nêu một phương. Một phương đã vậy, nói không thể hết, thì các phương còn lại cũng y theo đó. Một hải nắm giữ các quốc độ ở mười phương, vô tận, đều biến khắp pháp giới, thì tất cả hải còn lại cũng đều nắm giữ các quốc độ ở mười phương, đều biến khắp pháp giới, vô ngại, viên dung, vô tận, tự tại … tức không thể nói, không thể nói.

C2. Việc giữ gìn : Sở trì (chỗ được nắm giữ) là quốc độ và thế giới tánh. Có hai: Tại một phương và kết thông mười phương.  

1. Một phương : Có hai. Đầu tiên nói về 12 lớp Phật độ. Sau là nói về 7 thế giới tánh. 12 Phật độ này, có người dùng kết hợp với 12 nhân duyên để giải thích, có người dùng kết hợp với 12 trụ của Bồ-tát để giải thích v.v… Giải thích vậy e không đúng. Đâu phải cứ đồng với số 12 là liền kết hợp để giải thích. Những gì kinh đây nói, đều ứng với số 10, là cốt hiển sự vô tận. Thành dù là số 12, 7 hay 8 … thì đều là tăng giảm của số 10. Như Địa Luận giải thích “Vẫn là số 10”. Há kết hợp được sao? Huống nghĩa lý lại còn khác nữa? Ngoài ra, kinh này nói một sự hay một quốc độ, đều biến khắp pháp giới, đầy đủ tất cả các pháp môn : Nhân pháp, giáo nghĩa, nhân quả, lý sự v.v... Không chỉ ứng riêng vào một tướng nào, nên không thể dùng một môn mà giải thích. Văn kinh từ đầu chí cuối, đều theo đó mà hiểu.

Hỏi : Nếu vậy, sao từ trên đến đây, đều lấy một nghĩa, hai nghĩa v.v… để giải thích văn kinh?

Đáp : Tuy dùng “một” giải thích, nhưng vẫn là cái một của tất cả, nên không lỗi. Cho nên, có khi một mà không thiếu, nhiều mà không tăng. Chỉ vì thành văn tự nên dàn trải trước sau. Cần phải nhận cho được cái ý ‘nhiều và ít vô ngại’ này.

Phàm luận rộng về Phật và quốc độ, lập tên không đồng, là do 5 tướng :

1/ Nhân nơi cơ cảm.

2/ Do bản nguyện của Phật.

3/ Y nơi bản hạnh.

4/ Phật trước thọ ký.

5/ Biểu thị pháp môn.

Trong đó, chánh báo và y báo là Phật và quốc độ viên dung, có thể dùng pháp nghĩa mà tiêu tức nó. Hương hải cùng với thế giới tánh số nhiều như bụi, cứ theo giải thích đó thì có thể hiểu.

Có khi được phân thành hai lớp như vầy : Đầu tiên là biện về Phật độ Hoa tạng cùng với thế giới tánh mà nó gìn giữ. Sau, biện về Phật độ ở phương khác, cũng nắm giữ thế giới tánh. Tổng làm hai đối. Cứ theo đó mà hiểu.

2. Kết thông mười phương : Kết thông và kết thuộc, có thể tự hiểu.  

TRÙNG TỤNG

Gồm 70 bài kệ. Chỉ tụng lại các sự nói ở phần trường hàng trước. Nhưng không phải tụng lại 10 thế giới hải cùng với Hoa tạng v.v… Vì các thứ đó, mỗi thứ đều đã có kệ, trùng tụng đã xong. Chỉ là do 12 Phật độ và 7 thế giới tánh đều mang nghĩa của 10 hải, nên phần trùng tụng này hiển lại hình trạng của nó. Cùng với trường hàng, rộng lược xen nhau, đều đồng với các văn trước. Trong đó phân làm hai : 9 bài kệ đầu tụng lại những gì đã nói trong phần trường hàng. Phần kệ còn lại tụng riêng về 10 hải.

# Kệ (1) đến (9) : Phân làm 4

Kệ (1) : Nói về sở y căn bản là Hoa tạng độ hải.

Kệ (2) (3) (4) : Tổng biện về năng y là các quốc độ dị loại.

Kệ (5) (6) (7) : Biệt lược hiển năng y là hình quốc độ.

Kệ (8) (9) : Nêu chung đại dụng của Phật độ.

# Kệ (10) đến (70) : Tụng về 10 hải. Phân làm 10.

Kệ (10) đến (20) : KHỞI ĐỦ NHÂN DUYÊN THẾ GIỚI HẢI, trong đó có 7 nhân duyên :

Kệ (10) (11) (12) : Nhân duyên thần lực. Kệ (10) : Ngay gốc thì không hoại. Kệ (11) (12) : Theo ngọn, có khuyết đầy.

Kệ (13) (14) : Nhân duyên nghiệp chủng. Kệ (13) : Nghiệp báo sai biệt. Kệ (14) : Hành nghiệp sai biệt.

Kệ (15) (16) : Nhân duyên nguyện lực. Kệ (15) : Lấy bảo châu hiện sắc làm dụ. Kệ (16) : Lấy long vương hiện như mây trên trời, làm dụ.

Kệ (17) : Nhân duyên huyễn nghiệp.

Kệ (18) : Nhân duyên tâm họa.

Kệ (19) : Nhân duyên vọng tưởng.

Kệ (20) : Nhân duyên tâm hạnh.

7 nhân duyên này có gì sai biệt? 1/Hiện oai thần. 2/Chủng tử. 3/Nguyện lực đời trước. 4/Hiện hạnh. 5/Bản thức hiện. 6/Tướng chuyển thức. 7/Căn dục và sự ưa thích. Nên có sai biệt.

Kệ (21) (22) : TRANG NGHIÊM THẾ GIỚI HẢI.

Kệ (23) (24) (25) (26) : THANH TỊNH THẾ GIỚI HẢI. Kệ (23) : Thuần nhiễm, là chúng sinh. Kệ (24) (25) : Vừa nhiễm vừa tịnh, là Bồ-tát. Kệ (26) : Thuần tịnh, là chư Phật. Do đó mà cư độ có nhiễm có tịnh. Ba thứ này thứ lớp hướng về tịnh.

Kệ (27) (28) (29) (30) : HOẠI PHƯƠNG TIỆN THẾ GIỚI HẢI. Kệ (27) : Thuần hoại. Kệ (28) (29) : Vừa thành vừa hoại. Kệ (30) : Thuần thành, không có hoại. Vì nhiễm có thể hoại mà tịnh thì thường còn.

Kệ (31) đến (50) : THỂ THẾ GIỚI.

Kệ (31) đến (36) : Thể thuần nhiễm khổ.

Kệ (37) đến (40) : Thể có đủ hai thứ khổ và lạc.

Kệ (41) đến (50) : Thể thuần tịnh lạc. Trong đó, 5 bài đầu là theo sự mà nói thể. 5 bài sau, là diệu dụng tự tại.

Kệ (51) (52) (53) : TRỤ THẾ GIỚI HẢI. Kệ (51) : Nêu năng y, là hình. Kệ (52) (53) : Hiển sở y, là trụ tướng.

Kệ (54) (55) (56) : HÌNH THẾ GIỚI HẢI.

Kệ (57) (58) : KIẾP THẾ GIỚI HẢI.

Kệ (59) (60) (61) (62) (63) : PHẬT XUẤT THẾ THẾ GIỚI HẢI. Kệ (59) : Tổng nêu. Kệ (60) (61) : Hóa thân thị hiện. Kệ (62) : Với những căn cơ thuần thục, không khi nào không hiện. Kệ (63) : Không đủ căn khí, thì không hiện.

Kệ (64) (65) (66) (67) (68) (69) (70) : THUYẾT THẾ GIỚI HẢI. Kệ (64) (65) : Âm thanh ở ác đạo. Kệ (66) (67) : Âm thanh ở thiện đạo. Kệ (68) (69) (70) : Âm thanh pháp luân.

B10/b ĐÁP CÂU HỎI VỀ NHÂN: Nói về nhân của cái quả đã thành tựu. Là đáp tất cả các câu hỏi về hạnh hải tu hành v.v… của Bồ-tát đã hỏi trước. Giải thích, cũng ở nơi các thế giới tánh trước mà khai triển một thế giới tánh. Hiển bày 3 loại thế gian và 5 hải.

Chánh văn phân làm 4 : 1/Nêu thời và xứ trước đây. Phật ra đời làm duyên tu hành. 2/Năng tu (hành nhân) là đồng tử Phổ Trang Nghiêm. 3/Đối duyên, chánh tu thành tựu hạnh tự phần. 4/Thấy Phật, thành tựu hạnh thắng tiến.

1. Nêu thời và xứ trước đây : Đoạn “ … Xưa kia với số kiếp … phát tâm bồ-đề”. Phân làm bốn :

1/ Nêu thời trước đây : Đoạn “ … Xưa kia với số kiếp … số kiếp đó”.

2/ Nói về xứ trước đây : Đoạn “ … tên Quang Minh … Kim Cang Tràng”.

Phân làm bốn :

a. Trong thế giới hải có thế giới tánh.

b. Trong thế giới tánh có núi và rừng.

c. Phía đông rừng, có thắng thành : Trước, là y báo thù thắng. Sau, là nhân chúng thù thắng.

d. Các thành quyến thuộc trang nghiêm.    

3/ Trong xứ đó có đạo tràng : Trước, nói về đất đạo tràng. Sau, nói về tòa hoa.  

4/ Phật hiện tại đạo tràng : Trước, là Phật xuất hiện. Sau, phóng quang làm lợi ích.

2. Nêu Năng tu (hành nhân) : Đoạn “ …thành Diễm … Trang Nghiêm Đồng tử ”.

Vua có THIỆN HUỆ thuận với lý, khiến người đời ÁI KIẾN (thích nhìn).

Hỏi : Trong kinh Niết Bàn, tất cả Luân vương đều có số con nhất định là một ngàn, không tăng không giảm. Sao đây lại không đồng?  

Đáp : Luân vương của Niết Bàn, là vua của tứ thiên hạ, ứng với Tam thừa mà nói. Luân vương đây là vua của thế giới tánh, nên rộng và tế hơn. Như lưới báu bạch tịnh v.v… phải dùng phước báu nhiều như cát sông hằng của Kim luân vương mới cảm được. Đây là ứng với Nhất thừa, nên không đồng. Lại, vua và trưởng tử thuộc phước phần. Đồng tử thuộc tuệ phần. Cho nên, thành tựu căn khí nhập đạo.

Đức trùm khắp pháp giới, nên nói PHỔ. Phổ và đức trang sức lẫn nhau, là NGHIÊM.

Phổ là nghiêm, thì phổ tức là nghiêm. Phổ nghiêm là đồng tử, thì phổ nghiêm tức là đồng tử. Đều thuộc cả hai cách giải thích. Ly nhiễm, tinh khiết là khí chất của đạo, nên nói ĐỒNG TỬ, như Văn Thù v.v…        

3. Chánh tu thành tựu hạnh tự phần : Đoạn “Lúc ấy, đồng tử này, nhờ … Phật độ hải ” (kệ). Phân làm hai : Thấy Phật liền được các tam muội, là bắt đầu hạnh tự phần. Sau, nghe kinh được định, là thành tựu hạnh tự phần.

1. Thấy Phật được định : Phân làm bốn.

1. Tự lợi được định : NHỜ NHÂN DUYÊN thiện căn thấy … Có ba cách giải thích :

a. Do lực thiện căn thấy được Phật công đức làm nhân duyên. Đây chỉ thuộc lực cảnh giới.

b. Do lực nhân duyên thấy được Phật công đức mà xuất sinh thiện căn, nên được định.

c. Do ngoài thấy công đức của Phật làm duyên, trong tự có thiện căn đời trước làm nhân. Nhân duyên đầy đủ nên khiến được định.

10 THỨ TAM-MUỘI :

. 5 thứ đầu là thành tựu lợi tha : 1/Đầy đủ quả pháp. 2/Nhập phổ phương tiện. 3/Phương tiện thành nghiêm khí. 4/Lợi ích quần cơ. 5/Phần hạn lợi ích.

. 5 thứ sau là thành tựu tự lợi : 1/Thành tựu gia hạnh. 2/Nhập chánh chứng. 3/Hậu trí mở rộng. 4/Thuận với niết bàn. 5/Thuận với bồ-đề.

Một định đầu là tổng. 9 định sau thuộc biệt. Theo giải thích trên thì có thể hiểu.    

2. Dùng kệ khuyến hóa tha nhân : Đầu, nói kệ. Sau, phần hạn âm thanh của kệ.

Kệ (1) (2) (3) (4) : Tán thán Phật đức khó gặp.

Kệ (5) (6) (7) : Gặp thì được lợi ích thù thắng.

Kệ (8) : Kết luận, khuyên hưng cúng dường.

3. Vua hoan hỉ nói kệ : Trước, vua nghe rồi sinh hoan hỉ. Sau, ra lệnh. Có 3 :

Kệ (1) : Tuyên cáo.

Kệ (2) đến (8) : Ra lệnh nghiêm sức các thứ, biểu hiện việc cúng dường thù thắng.

Kệ (9) : Ra lệnh khởi niệm đến chỗ Phật.  

4. Cùng đến chỗ Phật : Đoạn “… đầy đủ bảy mươi … đứng vào một bên”. Trước, vua đến cùng với quyến thuộc thân thích. Sau, là tám bộ quyến thuộc bên ngoài.  

2. Nghe kinh được lợi ích : Đoạn “ … Như Lai vì giáo …”. Phân làm 3.

1. Nói tên kinh : Là hạnh hiện thành quả. Quả nắm giữ nhân, nên nói HIỆN TAM THẾ NHẤT … Nếu theo nghĩa này thì chỉ y cứ vào nhân, còn PHẬT TẬP HỘI chính là hiển cái HIỆN, thì chỉ thuộc quả. Trong đó, TAM THẾ (ba đời) là ba hiện tại, liền đầy đủ cửu thế (chín đời), thập thế (mười đời). Không như thế thì quá khứ vị lai đã không, vì sao nói HIỆN? Thuộc Nhất thừa Viên giáo, nên nhiếp hết quyến thuộc.

2. Đồng tử được lợi ích : Có hai : Đầu tiên được định, thuộc tự lợi. Sau, dùng kệ khuyến hóa tha nhân, thuộc lợi tha.

1. Tự lợi : Có 4 loại định : 1/Bao khắp cảnh pháp. 2/Nhiếp nhập qui tâm. 3/Khế pháp vô úy. 4/Tuệ nhãn viên minh.

2. Lợi tha : Đầu là thuyết kệ. Sau, được lợi ích.

a. Thuyết kệ : Có 3 phần.

Kệ (1) : Là tổng. Câu (1) (2) : Nói về pháp nhãn tam-muội trước. Câu (3) (4) : Tổng nêu phần sở kiến của pháp nhãn đó.  

Kệ (2) đến (8) : Thuộc biệt. Nói về Phật bản sinh. Nhờ Phật mà được thấy.        

Kệ (9) (10) : Thuộc biệt. Thấy chư Phật, lấy đó làm chỗ tu nhân, đạt được lợi ích.

b. Được lợi ích : Đoạn “… số chúng sinh … vô thượng”.

3. Như Lai tán thán : 9 bài kệ phân làm 5.

Kệ (1) : Tổng tán thán đồng tử.

Kệ (2) (3) : Biệt ký chánh báo.

Kệ (4) (5) : Biệt ký y quả .

Kệ (6) (7) : Tán thán khổ hạnh.

Kệ (8) (9) : Tổng ký y và chánh báo.

4. Thấy Phật, thành tựu hạnh thắng tiến : Đoạn “Lúc ấy, Nhất Thiết Công Đức … hải tam-muội”. Phân làm 2.

1. Nêu Phật là hạnh sở y duyên : Phật trước diệt độ Phật sau xuất hiện, vì hạnh khác, duyên khác. Báo mệnh của đồng tử vẫn còn, vì hạnh tương tục.  

2. Y duyên thành tựu lợi ích : Phân làm 2.

1. Thấy Phật được tứ định : Là bắt đầu hạnh thắng tiến.

a. NIỆM PHẬT, Địa Luận nói “Những gì Phật đã được, ta cũng sẽ được, là niệm Phật”.

b. Nhập vào PHỔ MÔN cùng tận HẢI TẠNG.

. TRÍ TRÌ, là năng chuyển. Trí pháp luân, chính là thành tựu sở chuyển.

. THÂM PHÁP an vui thần khí.

2. Khai kinh được nhị định : Là thành tựu hạnh thắng tiến.

Tên kinh NHẤT THIẾT … : Vì tự tánh pháp giới thanh tịnh, nên nói LY CẤU. Đầy đủ hằng sa công đức, nên nói TRANG NGHIÊM. Kinh trước thành tựu quả tướng. Kinh này ứng vào quả thể, là vì tự phần thắng tiến sâu dần.

Trong hai loại định, định NHẤT THIẾT PHÁP PHỔ… thuộc tự lợi. Định NHẬP NHẤT THIẾT… thuộc lợi tha. Trong đó đồng tử được pháp là thuộc địa vị nào? Theo nghĩa từ trên tới đây, ý kinh có 3 loại thành Phật :

a. Xét theo vị :

. Dùng lục tướng phương tiện : Sau khi mãn tâm Thập tín thuộc thắng tiến phần thì nhập sơ vị Thập giải, liền thành Phật. Vì đây là giai vị bất thối của Tam thừa Chung giáo.

. Dùng lục tướng của Nhất thừa dung nhiếp, liền đầy đủ các vị cho đến Phật quả.

Cho nên ở đây, đồng tử thấy đức Phật trước là tín vị thuộc tự phần. Nghe kinh trước, là tín vị thuộc thắng tiến. Thấy đức Phật sau, là sơ vị Thập giải thuộc tự phần. Nghe kinh sau, là sơ vị Thập giải thuộc thắng tiến. Vì nhiếp các vị đều đầy đủ.

b. Xét theo hạnh không nương vị : Đủ cả tự phần và thắng tiến, cứu cánh liền đến Phật quả.

c. Xét theo lý : Tất cả chúng sinh đều đã thành Phật. Hoàn toàn không có mới thành. Vì các dư tướng đều tận. Tánh đức vốn đầy đủ.

Phần sau này, đáng ra nên có kết hội. Nghĩa là, đồng tử ấy hiện nay tên là ... Cũng nên có động địa mưa hoa từ phương khác đến chứng minh và kết thông mười phương, cùng với trùng tụng v.v... Song vì kinh đến đây chưa hết nên chưa có phần này.

Hỏi : Hội này đã xong, sao trong chúng không ai được lợi ích?                            

Đáp : Do 4 ý khiến không có lợi ích riêng.

1/ Trong ba nghĩa trước, do hai nghĩa đầu mà nói tướng lợi ích của đồng tử. Do một nghĩa sau mà trong chúng không có lợi ích riêng.

2/ Pháp sư Quang Thống giải thích: “Kinh này, vì Phật vừa thành đạo mà thuyết, chỉ hiển pháp luân thể của Nhất thừa Viên giáo, là nền tảng của các giáo. Tướng lợi ích của các giáo chính là lợi ích này, nên không nói”.

3/ Giáo có hai loại :

a. Thuyết theo căn cơ của chúng sinh : Là nhiếp pháp tùy theo căn cơ. Căn cơ có tăng tiến thì tùy phần mà nói lợi ích.

b. Thuyết theo pháp giáo : Là nhiếp căn cơ đồng với pháp, pháp không có tăng giảm, nên không có lợi ích riêng.

4/ Kinh này như mặt trời xuất hiện. Trước chiếu các núi cao. Đã không có hàng căn cơ trung và hạ nên không có lợi ích tùy phần.

Các hội thuộc văn kinh sau đều theo đây mà hiểu.

Giải thích Hội I xong.