Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Ký Q5

BỒ TÁT THẬP TRỤ - Phẩm 11

22/06/2017


HOA NGHIÊM KINH THÁM HUYỀN KÝ
QUYỂN 5
BỒ TÁT THẬP TRỤ
Phẩm 11
(
Xem tại đây)
Sa môn Pháp Tạng thuyết
Chân Hiền Tâm Việt dịch

 Cũng có 4 môn phân biệt như trên.[1]

I. GIẢI THÍCH ĐỀ TỰA

Bồ-tát là nhân (người). Thập trụ là pháp. Được vị bất thối nên nói trụ. Trụ pháp ứng với sự tròn đầy, y cứ vào đó mà nói Thập, thuộc Đái số thích. Pháp Thập trụ này của Bồ-tát, thuộc Hữu tài thích. Là cái trụ của Bồ-tát, nên thuộc Y chủ thích. Bồ-tát tức là trụ, nên thuộc Trì nghiệp thích.

Hỏi : Trong phẩm Hiền Thủ ngoại phàm trước, chỉ ứng vào người mà gọi. Thánh vị Thập địa sau, chỉ ứng vào pháp mà gọi. Tại Tam hiền nội phàm đây, người và pháp hợp lại làm tựa là sao?

Đáp : Vị trước chưa thành nên lấy ngay pháp người làm tựa. Vị Tam hiền còn yếu nên hợp người và pháp lại mà gọi. Thánh vị hiển rõ ràng nên chỉ ứng vào pháp mà gọi. Đây cũng là theo tướng tăng dần mà đặt ra.

Hỏi : Đồng là nhân pháp hợp làm tựa, vì sao Thập hạnh, Thập hồi hướng lại chỉ nêu tên người. Đây lại nêu tên chung?

Đáp : Trong vị Tam hiền có ba là hạ, trung, thượng. Đây tương đương với hạ phẩm. Yếu, nên nêu chung tên. Thập hạnh là trung hiền, kế đó, tuy chỉ nêu riêng tên nhưng ứng vào nghĩa yếu nên đổi tên thành Hoa Tụ … Thập hồi hướng là thượng hiền, thù thắng, xứng với gốc, nên chỉ nêu tên Kim Cang Tràng Hồi Hướng.      

II. DỤNG Ý

Nghĩa của tựa kinh đã nói, chánh tông cần hiển rõ, nên có phần này.

III. TÔNG THÚ

Pháp Thập trụ là ‘tông’, y đó được quả là ‘thú’. Các nghĩa còn lại như trong Bản phần đã nói.

IV. GIẢI THÍCH VĂN KINH

Ngay trong phần chánh tông có 4 phẩm. Phân làm hai : 3 phẩm đầu là Đương vị hạnh đức. 1 phẩm sau là Thắng tiến thú hậu.

1. Đương vị hạnh đức : 3 phẩm là 3 đoạn. Phẩm đầu nói về vị. Phẩm kế nói về hạnh. Phẩm sau tán thán công đức. Lại, phẩm đầu là Giải. Phẩm kế là Hạnh. Phẩm sau hiển Đức. Đồng với 3 phẩm Minh Nạn v.v…. trên.

Hỏi: Sao hội trước không có riêng phần Thắng tiến thú hậu mà ở đây lại có?

Đáp : Vì ở đây, vị thành tựu, thù thắng hơn trước. Lại, Tín trước không có vị, đều là hướng về (thú) Trụ phương tiện. Nay vị này thành tựu nên riêng có phương tiện Thắng tiến thú hậu.

Hỏi: Nếu vậy vì sao sau phẩm Hồi Hướng không có thắng tiến?

Đáp: Vì vị thế gian đã mãn nên không cần. Lại, đều nhiếp các vị trước làm phương tiện chứng địa nên như thế.

2. Thắng tiến thú hậu : Phẩm này có 7 phần : 1/Tam muội phần. 2/Gia trì phần. 3/Khởi phần. 4/Bản phần. 5/Thuyết phần. 6/Chứng thành phần. 7/Kệ tụng phần.

1. Tam muội phần : Vì sao nhập định? Có 6 ý :

- Vì tam muội này là pháp thể.  

- Muốn hiển không chứng thì không thuyết.

- Muốn hiển pháp này không phải là cảnh giới có thể suy lường.

- Xét cơ thẩm dược.

- Nhận sự gia bị của Phật.

- Hiển chư Phật đồng thuyết.

Theo văn kinh có bốn :

1. Nói về người nhập định : Vì sao Pháp Tuệ nhập định? Vì là thượng thủ của chúng. Vì người khác nhập định thì loạn chúng điều phục. Vì hiển Thập trụ, Pháp Tuệ có thể thuyết.

2. Muốn hiển không phải lực của mình.

3. Nói về cái định đã đắc được : Vì phân biệt với Phật quả nên nói Bồ-tát. Quán và giải thiện xảo nên nói phương tiện, là trụ pháp. Phương tiện nhiều đường, nên nói vô lượng, gồm mười loại.

4. Nhận pháp tại tâm, nên nói chánh thọ.

2. Gia trì phần : Có ba. Trước, nói về năng gia trì. Kế, nói về sở gia trì. Sau, nói về tướng gia trì.

1. Năng gia trì : Có sáu :

1/ Xứ sở Phật : Xa và gần.

2/ Số Phật gia trì: Luận nói: “Vì sao có nhiều Phật gia trì? Vì muốn hiển pháp và pháp sư, là để tăng trưởng tâm cung kính, cũng là muốn hiển tất cả Phật đồng thuyết. Vì nương thần lực chư Phật, nên Pháp Tuệ thuyết tức là tất cả chư Phật đồng thuyết”. Đây thông cả hai thuyết nhân quả.

3/ Hiển Phật danh đồng : Có 4 ý :

a. Đắc pháp không khác.

b. Bồ-tát nghe chư Như Lai đồng tên với mình thì tăng thêm dũng mãnh vui thích.

c. Muốn nói ở Thập trụ, nhân đồng với quả.

d. Hiển hiện đầy đủ chư Phật ở trong môn Thập trụ này làm năng gia trì, nên đều gọi là Pháp Tuệ, vì là pháp lực, vì là pháp nhĩ.

4/ Tán thán được định này : Ngươi mới có thể, là chỉ cho sự vượt hẳn và hiếm có, để biết hiếm người nhập được tam muội này.

Hỏi: Vì sao chư Phật trong đại chúng lại tán thán việc nhập định?

Đáp: Vì Pháp Tuệ lặng yên nhập định. Vì nếu đại chúng không biết chỗ nhập thế nào thì không có tâm khát ngưỡng, không thể vì họ mà thuyết giảng. Cho nên, chư Phật nêu tên tam muội, đối trước chúng mà xưng tán là muốn khơi sự ưa thích của đại chúng.

5/ Nền tảng của việc đắc định : Đoạn “Này thiện nam tử! Mươi phương …” là chư Phật tự thuyết : Do mình tạo ra lực gia trì nên khiến được định đó.

6/ Chư Phật giải thích lý do có sự gia trì : Đoạn “Cũng là nhờ …”. Có 3 câu :

a. Nhờ lực bản nguyện của Lô-xá-na, khiến ta có sự gia trì : Địa Luận giải thích : “Xá-na thời quá khứ từng thấy có một Phật Lô-xá-na gia trì cho một Bồ-tát Pháp Tuệ thuyết pháp Thập trụ. Lúc ấy chư Phật (năng gia trì) đồng gọi là Pháp Tuệ. Nhân đó liền phát nguyện: ‘Nguyện ta thành Phật cũng có các việc như thế’. Nay theo bản nguyện đó mà thành, nên có sự gia trì vậy”.  

b. Cũng do thần lực của Lô-xá-na hiện tại tương cảm mà đồng gia trì.

c. Tự thiện căn của Pháp Tuệ thành thục : Nhờ đó có thể thuyết pháp lợi sinh. Trên cảm với chư Phật, nên đồng gia trì. Vì lược bớt nên không có lực cơ cảm của đại chúng. Hội xứ sau đều có. Lại, nguyện đời trước của Xá-na, là muốn hiển pháp căn thâm sâu : Từ lâu xa đến nay, tu pháp Thập trụ này, nên trong hiện thời vì các căn cơ mà tuyên thuyết.

Uy thần lực, là muốn hiển việc truyền thọ hiện thời.

Các thứ trên là lực của hóa chủ. Một thứ sau là lực của trợ hóa. Đây muốn hiển nhân quả đều dung, chủ bạn hợp thuyết mà thành sự giáo hóa.

2. Sở gia trì : Đoạn “Cũng là muốn khiến … thuyết pháp trì”. Câu đầu là tổng. 9 câu kế là biệt. Một câu sau là kết. Đồng - dị, thành - hoại v.v… cứ theo đó mà hiểu.

Trong 9 câu biệt :

Trưởng dưỡng phật tuệ, là tăng trưởng chân tuệ Phật tánh sẵn có, khiến hướng Phật quả, thành tựu bất thối. Đây là ứng vào trí.

Khai giải pháp giới, là khai giải chân lý pháp giới tại triền khiến cho hiển hiện. Cũng là khai thị giải thích lý pháp giới. Đây là ứng vào cảnh.

Phân biệt chúng sinh giới, là phân tích tánh loại của chúng sinh để biết ở các vị Thập trụ, mỗi thứ đều sai biệt, cũng là để biết ngũ tánh sai biệt. Đây là ứng vào hậu trí. Lại, chúng sinh giới tức là Như Lai tạng. Phân biệt, là liễu nhân, cũng là giải thích. Lại, phân biệt một xứ chúng sinh liền có tất cả chúng sinh và tất cả các pháp môn v.v...

Trừ diệt chướng, ứng vào Nhất thừa là trị diệt và tánh diệt ba chướng, bốn chướng, sử, tập v.v... Ứng vào Tam thừa là trừ ngã chấp của ngoại đạo và hắc chướng của các tâm trên. Đây ứng vào đoạn đức.

Nhập cảnh giới vô ngại, là vô minh và chướng hết, trí soi chân cảnh nên nói nhập cảnh giới vô ngại. Cũng là nhập cảnh giới như lưới châu của trời Đế Thích, nên nói vô ngại. Đây là ứng vào cảnh giới Thắng tiến nhập quả.

Vô đẳng đẳng phương tiện, là khéo nhập quả trí tương nhiếp tổng trì. Đây là ứng vào nhập quả trí, là nhập mật trí.

Nhập tất cả trí Đà-la-ni, là soi chiếu chân tục. Đây là ứng vào trí dụng.

Giác tất cả pháp, là biết căn cơ chúng sinh có nhiều hướng, thuần thục hay chưa thuần thục. Cũng là biết chúng đồng với như. Cũng là biết một căn cơ tức là tất cả căn cơ, như căn dục tánh hải v.v…

Thuyết pháp trì, là ứng cơ thuyết pháp, nhậm trì căn tánh khiến chẳng lầm lỗi. Cũng là trì hạnh chẳng lỗi, trì nghĩa chẳng tán, trì pháp chẳng diệt v.v…

9 câu biệt xong.

Chính là Bồ-tát Thập trụ, là câu kết luận : Thuyết rộng pháp gì để thành tựu các việc như thế? Đó là Bồ-tát Thập trụ.

3. Tướng gia trì : Đoạn “Phải nương … pháp vi diệu”, là ba nghiệp gia trì.

1/ Khẩu gia trì : Khuyến khích thuyết pháp để tăng biện thuyết. Vì sao khẩu gia trì lại nói trước? Vì phải y nơi phương tiện ngôn ngữ trước.

2/ Ý gia trì : Ích trí trùm khắp. Có hai : Trước là gia trì, sau là giải thích.

a. Phần gia trì : Có 10 câu.

Trí vô ngại, là câu tổng, là khiến trong đại chúng thuyết pháp vô ngại, là giải vô ngại.

9 câu kế là biệt, hiển sự vô ngại. Đồng- dị, thành - hoại v.v… theo đó mà hiểu.

Trí vô trụ : Không trụ trước nên vô ngại, là Vô trước biện tài.

Trí vô đoạn : Thời thuyết không dứt, không quên danh nghĩa, là Trụ phóng biện tài. Thuyết pháp không đợi thứ lớp, ngôn từ chẳng đoạn v.v…

Trí vô si : Khi nói không lẫn vô minh, vì không trái chánh lý.

Trí vô hoại : Vì lý được thuyết quyết định. Vì các luận thuyết khác chẳng thể phá hoại.

Trí vô ác : Vì thiện tịnh không lỗi. Nghĩa là không cầu các thứ ác nghiệp như danh v.v…

Trí vô lượng : Đối với tất cả pháp có thể tùy thuận mà thuyết, cũng là đạt tất cả nghĩa.

Trí vô thắng : Vượt các vị dưới, mà các thứ khác cũng không thể vượt qua.

Trí vô giải đãi : Thuyết pháp không mệt chán, cũng là lìa nhờn láo.

Trí vô thối : Lời nói không thối thất, lời nói không có thối lý, lời nói không thối khuất.

b. Giải thích :

Vì sao? Vì pháp … như vậy, là giải thích vì sao thiên về sự gia trì.

Hỏi : Chư Phật có lực, có từ bi, vì sao chỉ gia trì cho Pháp Tuệ mà không gia trì cho những người khác?

Đáp : Giải thích việc này có hai nguyên nhân :

1. Vì được định lực.

2. Vì pháp nhĩ : Như dòng nước pháp nhĩ hướng xuống dưới, đây cũng như vậy. Hễ có người thuyết pháp Thập trụ, lý số như đó, thì thần lực của chư Phật đều lưu tụ tại đó, nên như vậy.

3. Thân gia trì : Xoa đỉnh để tăng uy nghi, khiến từ định giác nên an mẫn khiến thuyết. Lại, chư Phật cũng chẳng đến đó, tay cũng không dài ra mà xoa đỉnh. Lại, tay của chư Phật đồng xoa đỉnh mà không ngại nhau. Tất cả đều là pháp của pháp giới duyên khởi khó nghĩ bàn.  

3. Khởi phần : Có 4 ý :

1/ Đã nội chứng pháp.

2/ Đã được thắng lực.

3/ Thuyết thời chí.

4/ Trong định thì không có ngôn thuyết, cho nên cần khởi.

Hội đầu, Phổ Hiền là ‘quả pháp’ thâm tế, nên thuyết pháp trong định, cũng là hiển Phổ Hiền tự tại. Đây nói về ‘nhân hạnh’ nên truyền ra.

4. Bản phần : Có hai : Trước là chứng bản, sau là giáo bản, là trước thể, sau tướng.

1. Chứng bản : Đầu tiên là giải thích các vị trước sau.

Hỏi : Vì sao trong Thập tín không có nghĩa này?

Đáp : Vì Thập tín chưa thành vị. Đây là thể của vị.

Hỏi : Vì sao hạng này gọi là chủng tánh, đến Thập địa gọi là thiện quyết định?

Đáp : Vì vị này tối thấp, ứng vào chủng tánh mà gọi tên. Thập hạnh kế trên, ứng vào việc ‘Y nơi chủng đó, phát thành hạnh nghiệp’ mà gọi tên. Thập hồi hướng tiếp trên, ứng vào ‘đại nguyện sau khi phát hạnh’ mà gọi tên, là hồi các hạnh trước hướng về chánh thể. Thập địa đã được chân thể tất nhiên, nên gọi là ‘thiện quyết định’. Các thứ đó đều là trong vị thể chung, tùy địa vị tăng dần mà có cấp bậc như thế. Cho nên, Thập trụ, Thập hạnh không có đại thiện quyết định, là vì thấp kém, vì các hạng ấy là hạng dưới trong Tam hiền, là hạng tối thấp, chưa nói đến đại dụng. Vì tự lợi tăng. Vì ứng vào chủng chưa hiện hành mà nói.

Nghĩa chủng tánh lược có ba môn.

1. Giải thích tên : Chủng, là nhân. Tánh (), là thể. Tánh () cũng có nghĩa là tộc, là chủng tộc. Tánh () cũng có nghĩa là loại, là chủng loại.

2. Xuất thể : Có hai : Tánh chủng tánh và tập chủng tánh.

a. Tánh chủng tánh () : Có hai môn :

. Môn Hữu vi vô thường : Như Du-già nói: “Lục xứ thù thắng, vô thủy triển chuyển, pháp nhĩ sở đắc …”.

. Môn Vô vi thường trụ : Như luận Bảo Tánh nói: “Tánh chân như đó, như lục căn tụ, trong kinh đã nói…”.  

b. Tập chủng tánh () có và không : Với ngài Hộ Nguyệt, đó chỉ là bản tánh (). Với ngài Thắng Quân đó chỉ là tập tánh (). Với ngài Hộ Pháp thì gồm cả hai. Theo Duyên khởi thì tất cả đều ly.

3. Các môn : Phân biệt thành 5 môn :

a. Xét về tánh tập trước và sau.

b. Xét về ngũ tánh.

c. Xét về lục tánh.

d. Xét về ký vị.

e. Các giáo đều theo chỗ phân biệt mà nói.

Lại, phẩm Tánh Khởi nói: “Bồ-tát Ma-ha-tát tự biết trong thân đều có bồ-đề của tất cả chư Phật. Vì sao? Vì tâm Bồ-tát không lìa bồ-đề của tất cả Như Lai. Như tự tâm mình, trong tâm của tất cả chúng sinh cũng như vậy, vô lượng vô biên, không chỗ nào không có, không thể phá hoại, không thể nghĩ bàn”.

Trong văn kinh có 6 câu :

Chủng tánh Bồ-tát : Câu đầu này là tổng. Trong 5 loại tánh, vì phân biệt với các loại tánh khác, nên nói Chủng tánh Bồ-tát.

5 câu còn lại là biệt, hiển nghĩa chủng tánh.

Thậm thâm, là sâu xa.

1. Ứng vào tánh hữu vi thì triệt cùng hậu tế.

2. Ứng vào tánh vô vi, là pháp tánh chân như lìa tướng lìa tánh.

3. Ứng vào dụng, là xuất sinh thắng đức không thể hết.

4. Triệt đồng Phật quả : Soi tận, vượt xa nên nói thậm. Rốt ráo không đáy, nên nói thâm. U huyền không cùng, nên nói thậm thâm.

Quảng đại, là bao hàm, phổ biến, vô biên. Trước là sâu không đáy. Nay là rộng vô bờ. Đây bao hàm hết các pháp hữu vi, vô vi, năng sanh, sở sanh, nhân, quả v.v… Y đó mà biệt hiển.

Cùng với pháp giới đồng, là nghĩa thắng thiện, là đại bạch pháp giới v.v… Cũng là đầy đủ tất cả các pháp như nhân - pháp, giáo - nghĩa, nhân - quả, lý - sự v.v…    

Cùng với hư không đồng, là nghĩa nhân thiện. Vì thành tựu cái nhân của quả ái vô thường, nên như hư không. Vì thuộc địa tiền nên lược bớt cái nhân của quả vô thường.[2]

Cũng do cái thâm nói trên mà đồng với pháp giới, do cái quảngđồng với hư không. Hoặc đủ cả hai, hoặc cùng với từng cái riêng trên. Có thể tự biết.

Tất cả … sinh ra, là nghĩa không khiếp sợ, vì từ chủng Phật sinh ra. Cũng là giải thích cái nghĩa của từ ‘chủng tánh’. Cũng là được chư Phật từ trong tánh Bồ-tát sinh ra. Cũng là giải thích các câu trên : Vì sao biết chủng tánh Bồ-tát thậm thâm, quảng đại đồng với pháp giới v.v…? Giải thích : Vì là chủng tánh của ba đời chư Phật hay sinh tất cả Bồ-tát v.v…  

2. Giáo bản (hiển tướng) : Có ba.

1. Nêu số dẫn chứng : Phật quả ba đời đều từ nhân Thập trụ cảm nên. Như đường đi của bậc đại vương, lý của nó không có đường rẻ, nên nói đều nói.  

2. Liệt danh : Kê ra 10 loại.

3. Kết thuyết : Trong đó nghĩa Thập trụ lược thành 10 môn : 1/Giải thích tên. 2/Nói về thể. 3/Nói về thân sở y. 4/Hạnh sở hành. 5/Cảnh sở quán. 6/Chướng đã lìa. 7/Đức thành tựu. 8/Pháp ký thác. 9/Vị đã nhiếp. 10/Quả thành tựu.

1. Giải thích tên : Có hai : Tổng và biệt. Phần tổng thì như trước đã giải thích. Phần biệt, có 10 tên :

Sơ phát tâm trụ : Với phàm phu và ngoại đạo, trong mười ngàn kiếp tu Tín thiện căn, phương tiện hạnh mãn. Đối với đại bồ-đề khởi tâm quyết định, nhập vị bất thối, nên nói Sơ phát tâm. Sơ phát tâm tức là trụ, thuộc Trì nghiệp thích. Đây tương đương với ‘Tín thành tựu phát tâm’ trong luận Đại Thừa Khởi Tín.

Trị địa trụ : Tinh luyện tâm này khiến lìa nhiễm hiển tịnh, nên nói trị địa, là Trị tâm địa.

Tu hành trụ : Diệu quán không và hữu mà chánh hạnh huân tu, nên nói tu hành.

Sinh quí : Sinh tại Phật gia, chủng tánh tôn quí, nên nói sinh quí, ngang với địa vị vô lậu.    

Phương tiện cụ túc trụ : Khéo không để trệ chân mà khởi bi mẫn với đời. Trệ chân mà tùy tục. Hai thứ này hợp quán, lìa nhị biên, thiện xảo đầy đủ, nên nói cụ túc. Đây đồng với Ngũ địa, chân tục khó hợp mà có thể hợp.  

Chánh tâm trụ : Quán pháp bất nhị đã dần thuần thục, nghe tán thán hay hủy báng Phật v.v… tâm chẳng nghiêng động, nên nói chánh tâm. Tâm tức là chánh, nên nói chánh tâm. Lại, chánh là cảnh, tâm là trí. Vì tâm trụ chánh lý nên nói chánh tâm.

Bất thối chuyển trụ : Chỉ quán cùng hành, duyên chẳng thể phá, nên nói bất thối. Đây đồng với tướng song hành của Thất địa.

Đồng chân trụ : Vì ba nghiệp lìa nhiễm, rực rỡ, thanh khiết như đồng nhi. Hạnh tánh thành vật của đồng nhi không thể tán hoại, nên nói chân. Đây đồng với vô công dụng hạnh của Bát địa.

Pháp vương tử trụ : Ứng cơ khéo thuyết, nối tiếp pháp vương, nên nói tử.

Quán đỉnh trụ : Trụ ở vị thành mãn, thành tựu trí thân. Vì nước pháp của chư Phật rót vào đỉnh Bồ-tát này, nên nói đỉnh.

Theo Viên giáo thì vị Quán đỉnh này nếu mãn liền thành Phật, hoàn toàn không có Thập hạnh v.v… như chỗ Tì kheo Hải Tràng giảng thuyết ở văn sau.

Tam thừa giáo thì không như vậy, vì chỉ hiểu tướng chưa chứng chân, nên lập nên tên có ba :

1/ Trụ thứ tư, thứ tám, thứ chín, thứ mười là từ dụ mà được tên.

2/ Trụ thứ bảy là ứng với việc lìa lỗi mà được tên.

3/ Các Trụ còn lại là ứng với công năng mà được tên.          

2. Nói về thể tánh : Có ba môn.

1/ Ứng vào sở y : Lấy vô lượng phương tiện tam muội làm thể, vì y nơi định này mà thuyết Thập trụ. Nên luận sau nói : «Tam muội này là pháp thể».

2/ Ứng vào gốc : Lấy chủng tánh thậm thâm v.v… nói trên làm thể. Vì chủng tánh đó là thể của Thập trụ. Chỉ tùy địa vị mà nói mười, không có tánh riêng.

3/ Khắc tánh () : Ứng vào sở duyên thì lấy hai đế chân và tục. Ứng vào năng duyên thì lấy hai hạnh bi và trí. Các hạnh quyến thuộc còn lại đều nhiếp thuộc đây. Lại, cảnh giới chân và tục đều dung, bi và trí duy nhất, hai thứ này lại tròn đủ dung thông, pháp giới không chướng ngại, đầy đủ công đức tự tại là thể của Thập trụ. Đây là ứng vào Viên giáo mà nói.

Các môn[3] còn lại sẽ tạo riêng.

5. Thuyết phần: Thập trụ có hai phần.

1/ Quả phần viên dung, không thể thuyết.

2/ Nhân phần tùy thuyết. Có hai:

a. Ứng vào hạnh tự thể của Phổ Hiền.

b. Ứng vào vị tướng của Phổ Hiền. Cũng có hai :

. Chứng vị, như phẩm Thập địa nói.

. A-hàm vị, như các phẩm này nói.

Nay, phần này nói về vị A-hàm là chính. Trong đó có hai : Trước, nói về địa vị nhiếp thể. Sau, nói về địa vị tùy tướng.

1. Địa vị nhiếp thể: Giải thích Thập trụ phân làm 10 đoạn, mỗi đoạn đều có hai : Trước nêu tên. Sau giải thích. Phần giải thích đều có hai : 1/Tu hành là biệt tướng của vị. 2/Quán giải là biệt tướng của vị.

1.a Tu hành là biệt tướng của vị : Vì mỗi Trụ đều tu một hạnh. Đây cũng có hai : Trước là Tự phần hạnh. Sau, học 10 pháp, là Thắng tiến hạnh. Thắng tiến hạnh có hai : Trước là chánh tu. Sau là giải thích ý tu. Trong đó, Trụ thứ nhất và thứ mười, văn tướng có thêm, vì Trụ đầu là hạnh gốc, phải nương vào nhiều duyên, còn Trụ cuối là vị mãn nên công đức sâu rộng.

Trong phần giải thích mỗi Trụ đều có hai : Tiêu đề và giải thích. Trong phần giải thích đều có ba : 1/Nói về hạnh nhập Trụ. 2/Học 10 pháp tạo Trụ hạnh thanh tịnh. 3/Trụ mãn được quả. Theo Địa luận, các địa đều có nhân, thể và quả tương tức. Nhập Trụ là nhân. Tịnh trụ là thể. Trụ mãn là quả.

Nay y trên mà giải thích.

1. SƠ PHÁT TÂM TRỤ : Trước, nêu tên. Sau, giải thích nghĩa.

Giải thích nghĩa cũng có hai : Một là Biệt hạnh. Hai là đồng tướng.

A. Biệt hạnh : Có hai. Trước là tự phần. Sau là thắng tiến.

I. Tự phần hạnh : Có hai :

1. Nói về gốc của hạnh : Phát tâm bồ-đề là nền tảng của Thập trụ. Chỉ chuyển tâm này dần dần tăng thắng mà thành các Trụ sau.    

. 6 câu đầu Thấy Phật với 32 tướng … thuyết rộng Phật pháp, là nêu cái duyên từ đó có việc phát tâm. Cũng có thể hiểu : 6 câu này giải thích sự phát tâm.

Trong 6 câu này, có hai chỗ nghe thuyết pháp. Trước là nghe người khác thuyết. Sau là nghe Phật thuyết. Trước là nghe thuyết lược qua. Sau là nghe thuyết rộng. Trước là thuyết nhân pháp. Sau là thuyết quả pháp. 7 duyên phát tâm y theo đó mà hiểu.    

Phát tâm bồ-đề, là nói về tâm thể đã phát, cũng là giải thích tâm.

Cầu nhất thiết trí, là sự mong cầu trong việc phát tâm, cũng là giải thích bồ-đề.

Một lòng chẳng thối, là ở trụ này không còn thối chuyển, cũng là giải thích nghĩa Trụ, cũng để giản trạch sự khác nhau giữa Bồ-tát Thập trụ với phàm phu và ngoại đạo.    

2. Nói về sở đắc :

a. Phần, với nghĩa ‘nhân’ : Nhờ Sơ Phát tâm mà được thành tựu cái nhân của 10 lực quả pháp đó. Đây là ứng vào Thủy giáo mà nói.

b. Phần, với nghĩa ‘chưa viên’ : Vì nhập Trụ bất thối mới sinh vào Phật gia, được phần Phật thể. Tức trong 10 lực, tùy phần mà được. Đây là ứng vào Chung giáo mà nói.            

c. Phần, với nghĩa ‘viên dung vô ngại’ : Được ‘phần’ chính là được ‘viên’. Nhưng vì ngay môn Phổ Hiền mà nói, đã nhân thì chẳng phải quả, nên nói phần. Theo đó, ‘lậu tận’ cũng là từng phần được. Theo giáo thì có thể biết.

Lại, 10 lực này, với Tiểu thừa thì đến Phật quả mới được, với Tam thừa thì đăng địa mới được từng phần, với Nhất thừa thì nhập vị liền được.      

II. Thắng tiến hạnh : Có hai. Trước là chánh biện. Sau là giải thích.

1. Chánh tu : Có 10 câu.

. Cung dưỡng chư Phật.

. Tán thán các Bồ-tát hay xả cái lạc của mình, nhẫn với các khổ mà cầu quả vị.

. Dùng pháp thắng diệu giáo hóa chúng sinh. Không để tâm mình đọa vào vị phàm phu và Tiểu thừa, nên nói hộ. Cũng là hộ trì thiện căn khiến được tăng trưởng.

. Tương đương với bài tụng thứ ba nói sau, là thường tán thán hiền thánh. Đây nói thân cận, là ứng vào tự lợi, còn bài tụng thì ứng vào lợi tha, vì thân cận mà thường tán thán vậy.      

. Tán thán pháp tịnh diệu. Ma v.v… không thể phá hoại nên biết bất thối.

. Do công đức Phật an lập Bồ-tát, nên nói tu. Đây thuận với bài tụng.

. Khéo giáo hóa chúng sinh khiến được thấy Phật, nên nói tán mỹ sinh trước chư Phật.

. Khéo tu tam muội để giáo hóa chúng sinh nên nói phương tiện.  

. Chuyển bánh xe diệu pháp, diệt bánh xe sinh tử, nên nói tán thán viễn ly sinh từ luân hồi. Cũng có thể hiểu : Khiến lìa cái khổ vô thường nên nói như thế.

. Vì các loài trong sinh tử khổ mà làm chỗ qui về y tựa thanh lương. Cũng là khiến cho chúng sinh được cái lạc thường hằng.

10 câu trên đều y theo các bài tụng sau mà biết.

2. Giải thích ý tu : Trước hỏi, sau đáp giải thích.

Hỏi : Phát tâm bồ-đề rồi, vì sao lại tu học 10 hạnh này?

Đáp : Có ba nghĩa.

. Vì muốn tâm này chuyển tăng thắng.

. Vì muốn thêm kiên cố.

. Vì muốn thành tựu quả.

Hoặc :

. Vì muốn khiến cái nhân Tự phần hạnh được kiên cố.

. Vì để Thắng tiến hạnh chuyển tăng.

. Vì muốn trọn thành Phật quả.

Nên cần tu học.

B. Đồng tướng : Ngộ là nhờ duyên, nên nói nếu có nghe pháp. Hiểu là từ trong phát ra, nên nói chẳng do nơi khác mà ngộ.

Nghĩa Do nơi khác có ba : Tiểu giáo, ngoài tâm, ngoài tánh.

Nghĩa Tự khai hiểu cũng có ba : Đại giáo, không ngoài tâm, không ngoài tánh. Nên văn sau nói : “Tuy biết tất cả pháp không do nơi khác mà ngộ nhưng cầu thiện tri thức không thấy chán đủ”. Các Trụ sau, tùy vị mà tăng dần nhưng riêng phần này, nghĩa đều đồng với đây.

2. TRỊ ĐỊA TRỤ :

I. Tự phần hạnh : 10 loại tâm, có hai nghĩa :

1/ Ở nơi một chúng sinh liền khởi 10 tâm này, hiển sự vô tận.

2/ Nêu tướng dị biệt của 10 loại tâm, để rõ đối với chỗ khởi của 10 loại chúng sinh :

Đại từ tâm, là với chúng sinh oán ghét không nghĩ đến việc trả báo.

Đại bi tâm,là đối với chúng sinh đang thọ khổ.

Lạc tâm, là đối với chúng sinh thiếu tài sản vật dụng.

An trụ tâm, là đối với chúng sinh bất thiện, khiến họ trụ thiện hạnh. Luận nói : “An là nhân xứ. Lạc là quả xứ”.

Hoan hỉ tâm, là đối với chúng sinh được thiện nhân và lạc quả.

Độ chúng sinh tâm, là độ chúng sinh hữu lậu khiến phát tâm.

Thủ hộ chúng sinh tâm, là đối với chúng sinh mới phát tâm.

Ngã sở tâm, là đối với chúng sinh tu Bồ-tát đạo yếu kém hơn mình, nhiếp thọ giúp họ đồng với mình.

Sư tâm, là với chúng sinh mà hạnh của họ ngang với mình thì học và nâng họ lên đồng thầy.

Như Lai tâm, là với chúng sinh kém đức hơn mình, kính đồng như Phật.

10 tâm này đều giải thích trong tập quả của Đệ nhị địa.

II. Thắng tiến hạnh : Câu đầu là tổng. Chín câu sau là biệt.

Chuyên cần học cầu đa văn : Vì nếu không nghe nhiều thì khi hành không có chỗ y tựa. Lại, vì giáo hóa chúng sinh nên cần phải như thế. Nêu cầu ý đa văn cũng là để xả ly cái dục của mình.

Gần thiện tri thức, là thân cận bạn lành.

Không trái giáo này, là thuận với giáo nói đây.

Khéo biết thời ngữ, là không thỉnh hỏi phi thời.

Học vô sở úy, là không sợ không được pháp, cũng không sợ thâm pháp.

Minh giải thâm nghĩa, là hiểu được thâm nghĩa.

Liễu đạt chánh pháp, là thông đạt được chánh giáo.

Biết chắc pháp hành, là với giáo nghĩa thì nắm được pháp tu hành.

Xả ly si ám, là y nơi pháp mà chánh tu, lìa chướng.

An trụ bất động, là thành tựu công đức, nên nói bất động.

3. TU HÀNH TRỤ

I. Tự phần hạnh : 10 loại quán này là hạnh hộ phiền não. Muốn người thực hành ‘vô trụ’ nên đều nói về nghĩa vô thường. Câu đầu là tổng. Chín câu sau là biệt.

Vô thường, là không có vật nào ở đời là thường, tức tự tánh không thật. Tam tánh là vô thường v.v… cứ theo đó mà hiểu.

Khổ, vì ngũ ấm rỗng đến không, thành khổ.

Không, là chân lý không của Tam vô tánh.

Vô ngã, là hai vô ngã. Ngã và vô ngã mà không phải hai. Nếu nói đầy đủ thì như Yểm-đề-già đã nói.

Không tự tại, vì lệ thuộc vào nhân duyên nên không được chỗ tự tại.

Không thể lạc : Lạc sở dĩ không có là vì tướng các pháp ở thế gian hư vọng, nhơ ác, bất tịnh, lại chóng diệt,

Không tập tán : Vì thành, không có chỗ tập. Hoại, không có chỗ tán.

Không kiên cố : Ngay danh đó không có thật, lại chẳng thể dừng trụ trong giây lát.

Hư vọng : Tướng hữu thể không có, nên nói . Chấp hư làm thật nên nói vọng. Lại, không thật là , trá thật nên nói vọng.

Không tinh cần hòa hợp kiên cố : Thế pháp chóng diệt, dù gia tâm phòng hộ cũng chẳng thể khiến nó mãi còn. Trong phần giải thích duyên, vì không lực nên nói không tinh cần. Do không lực nên không hòa hợp. Không hòa hợp nên không kiên cố.

Giải thích 10 thứ vô thường này như trong Địa luận.

II. Thắng tiến hạnh : 10 câu phần này là để hộ cho hạnh Tiểu thừa. Câu đầu là tổng. Chín câu sau là biệt.

Biết tất cả chúng sinh giới, là để phân biệt chúng sinh giả danh chẳng thật. Cũng là để phân biệt các loài sai biệt v.v…

Biết tất cả pháp giới, là biết hoặc nghiệp, nhiễm, tịnh, pháp giới của chúng sinh sai biệt.

Biết tất cả thế giới, là biết y xứ của chúng sinh sai biệt, cũng là biết hết y báo.

Biết địa thủy hỏa phong giới, là biết tứ đại thành tựu chúng sinh sai biệt, cũng là biết tứ đại xuất khí thể.

Biết dục, sắc, vô sắc giới, là biết tam giới, phân biệt chúng sinh thô tế sai biệt. Cũng là nói về khí tướng, đều phân biệt biết là không và sai biệt v.v…

Hỏi : Trước đã quán vô thường, không v.v… nay sao lại khởi các phân biệt?

Đáp : Vì ngay ‘không’ mà phân biệt sự mới khiến cho tuệ minh tịnh.

4. SINH QUÍ TRỤ

Từ trong tất cả thánh giáo sinh ra, là giải thích tên. Có thể tự hiểu. Kinh Pháp Hoa nói: «Từ miệng Phật sinh, từ pháp hóa sinh v.v…».

I. Tự phần hạnh : 10 hạnh đầu đồng với 10 loại pháp trí của Tứ địa.

3 hạnh đầu là nhiếp tâm vào lý vì tu hạnh Chỉ.

Tin Phật không hoại, là chứng tâm đối với Phật.

Rốt ráo đối với pháp, là thấu tận nguồn pháp.

Tịch nhiên định ý, là an tâm khế nguồn. Vì đây tương đương với vị xuất thế nên đối với Tam bảo được tịnh tín không hoại.                

7 hạnh sau là soi thấu sự tướng vì tu hạnh Quán.

Phân biệt chúng sinh, là phân phán chúng sinh được giáo hóa ra nhiều loại.

Phân biệt cõi Phật, là ứng cơ hiện các cõi sai biệt không phải một.

Phân biệt thế giới, là y báo của chúng sinh nhiễm tịnh khác loại.

Phân biệt các nghiệp, là nghiệp hữu lậu sạch không đồng.

Phân biệt quả báo, là phân biệt quả báo có lạc có khổ khác nhau.  

Phân biệt sinh tử, là phân biệt sinh tử có bảy loại sai biệt.

Phân biệt niết bàn : Niết bàn, với câu (2), câu (4) và câu (5) khác nhau, đều ở nơi các thứ đó mà phân phán để hiển ‘không’ và các tụ loại sai biệt.

Cũng có thể giải thích, trong 7 câu thì câu đầu là tổng, nêu chánh báo nhiễm tịnh, 2 câu kế là y báo nhiễm tịnh, 2 câu kế nữa là nhân quả nhiễm tịnh, 2 câu kế nữa là phần vị nhiễm tịnh.

II. Thắng tiến hạnh : 10 câu chia thành bốn.

Học phật pháp quá khứ, vị lai, hiện tại, là Tầm Tư giản trạch.

Tu hành phật pháp quá khứ, vị lai, hiện tại : Chánh tu của mình.

Đầy đủ phật pháp quá khứ, vị lai, hiện tại : Tu hành viên mãn.

Bình đẳng quán sát tất cả chư Phật : Tổng kết không hai.

Cũng có thể giải thích : Câu học Phật pháp là giáo pháp. Câu tu hành Phật pháp là hạnh pháp. Câu đầy đủ Phật pháp là quả pháp. Câu bình đẳng quán sát là lý pháp. Nhờ phần hỏi ‘Vì sao?’và giải thích ‘Vì muốn khiến minh đạt nhị thế đẳng quán’ mà có thể hiểu các ý trên.  

5. PHƯƠNG TIỆN CỤ TÚC TRỤ

I. Tự phần hạnh : Câu đầu là tổng. Chín câu sau là biệt.

Đều vì cứu hộ chúng sinh : Trị địa trụ phát khởi tâm này. Phương tiện cụ túc trụ đây thì nêu thiện căn, hiển chỗ đã hành dần thuần thục.

Nhiêu ích tất cả chúng sinh, là khiến tu thiện căn.

An lạc tất cả chúng sinh, là khiến chúng sinh được lạc quả.

Bi mẫn tất cả chúng sinh, là khiến chúng sinh không chấp trước vào cái lạc.

Thành tựu tất cả chúng sinh, là khiến chúng sinh tu đạo xuất thế.

Khiến chúng sinh xả ly các nạn, là khiến chỗ sinh ra lìa tám nạn, cũng là khiến lìa cái nạn hoặc nghiệp v.v...

Bạt đi tất cả khổ não …, là muốn khiến chúng sinh rốt ráo lìa cái khổ của phần đoạn sinh tử và biến dịch sinh tử.

Khiến chúng sinh hoan hỉ …, là dạy lấy chánh pháp diệt bất tín và nghi hoặc, nên hoan hỉ.

Khiến chúng sinh điều phục, là trao truyền, dùng tam học chế phục, tạo tu.

Khiến chúng sinh đều được niết bàn, là khiến chúng sinh đều được học quả, cũng là bảy loại trí, tám loại định.

II. Thắng tiến hạnh : Có 10 loại đoạn quả.

Học biết chúng sinh không có biên, vì không đối trị nên sinh tử vô biên.

Biết chúng sinh không thể tính : Đây ứng vào quá khứ và vị lai, nên thành hai câu (2) và (3). Câu (3) là ứng với cái khổ trong hiện tại.

Biết chúng sinh khó nghĩa bàn, là ứng vào mười phương, ứng vào thể tánh, cũng là ứng vào căn dục.

Biết mọi thứ sắc của chúng sinh, là ứng với hai giới dưới.

Biết chúng sinh không thể lường, là ứng vào Vô sắc giới, cũng là ứng với chủng loại nhiều, cũng là ứng vào vô tướng.

Biết chúng sinh không, là ứng vào sở chấp tánh, cũng là ứng vào vô sinh.

Biết chúng sinh không thể tự tạibiết chúng sinh không chân thật, là ứng vào Y tha tánh. Câu đầu là y nơi duyên, cũng là không tánh, cũng là vô sinh. Câu sau là không thật, cũng là tựa như có, cũng là không tánh.

Biết chúng sinh vô sở hữu, là ứng vào Không Như Lai tạng trong Viên thành thật mà nói, cũng là tổng kết tam vô tánh.

Trong phần giải thích, không nhiễm trước có hai nghĩa :

. Đã dùng thiện căn cứu độ nhiếp hóa chúng sinh. Vì học biết chúng sinh vô biên v.v… nên không lệ thuộc vào các tâm có hạn phần. Đó là hai tâm quảng đại và thường hằng.  

. Học biết không v.v… nên không chấp trước. Thật, thì chẳng phải là tâm điên đảo.

6. CHÁNH TÂM TRỤ

I. Tự phần hạnh :

4 câu Nghe tán Phật … nghe tán phi …, là đối với Tam bảo đáng kính, tu bình đẳng quán.

3 câu nghe chúng sinh hữu luợng… , là đối với chúng sinh đáng thương, tu bình đẳng quán.

3 câu nghe pháp giới hữu lượng … hoặc có … , là biết pháp mà nói bình đẳng quán.

Vì lời tán thán hay phỉ báng đều từ duyên khởi, đồng với không tự tánh. Lý không tánh là cảnh giới của quán này. Cho nên, bất động gọi là Chánh tâm trụ.

Lại, Phật đầy đủ thắng đức, lý nên tán thán, nên nghe tán thán không động. Nếu chấp Phật, tức tình có thì không phải chánh lý, nên nghe phỉ báng cũng không động. Lại, phỉ báng tướng khiến dứt, tán thán lý khiến hiển, nên đều không động. Cho nên, kinh Thương Chủ Thiên Tử ghi:

Lại hỏi: Thưa Văn-thù-sư-lợi! Nếu có người phỉ báng điều ngài nói thì sẽ thế nào?

Đáp: Sẽ hướng niết bàn.

Lại hỏi: Vì duyên gì mà nói như thế?

Đáp: Tất cả không có ‘ngôn ngữ không phỉ báng’ mà có thể đến được trong thánh giải thoát sao?[4] Vì sao? Vì trong thánh đạo, không có danh tự, chương cú, ngữ ngôn có thể nói, có thể dạy. Nếu chẳng tin thì các người đó sẽ chẳng giải thoát.

Lại hỏi: Do duyên gì mà nói như thế?

Đáp: Vì không thể đã giải thoát lại được giải thoát.

Pháp giới tùy chứng mà có cạn sâu, nên nói hữu lượng vô lượng. Thế giới nhiều nên nói pháp giới hoặc thành hoặc hoại. Trong bài kệ có tụng: «Thế giới thành hoại». Không và bất không là không. Do được 10 loại tâm quyết định đó, nên đối với các duyên nghịch thuận đều không thể động. Trong các địa vị này, nếu có thị hiện sự thối lui là do dẫn dạy các bậc sơ tâm giải đãi kiêu mạn, như Xá-lợi-phất, Pháp Tài Vương v.v…. cho nên Đệ thất trụ gọi là Bất thối.

II. Thắng tiến hạnh           

Ba câu vô tướng, không tánh, không thể tu, là ứng vào Tam vô tánh quán.

Vô sở hữu, là ứng vào hoặc nghiệp.

Không chân thật, là ứng vào quả báo.

Như hư không, là ứng vào năng hiện.

Không tự tánh, là ứng vào sở hiện.

Như huyễn, là không thể tánh.

Như mộng, là hiện thật.

Như hưởng, là duyên tụ.

Lại, giải thích 10 loại này là lần lượt giải thích các nghi.

Nghi : Nghe pháp sở chấp không tướng, liền cho Y tha là có.

Giải thích : Vì từ duyên nên không tánh.

Nghi : Đã không có Y tha, vậy chân như tại triền há không cần tu mà hiển.

Giải thích : Vì tánh vốn thanh tịnh nên không đợi tu.

Nghi : Chân như nếu tánh tịnh thì phiền não, nghiệp quả v.v… không đoạn trừ?  

Giải thích : Vô sở hữu.

Nghi : Nếu thế sao hiện có y báo và chánh báo?

Giải thích : Vì y chân, không chân thật.

Nghi : Nếu thế pháp không thật, mà chân lý làm sở y cho các pháp, thì đây nên là có.

Giải thích : Như hư không cùng với sắc v.v… làm sở y nhưng tự thể chẳng phải có.

Nghi : Sở y nếu không thì các pháp năng y nên có.

Giải thích : Y tha thì không tự tánh.

Nghi : Nếu như thế thì cảnh và nghiệp quả cũng nên như thế.

Giải thích : Thì như huyễn.

Nghi : Nếu vậy sao người thế gian không thấy là huyễn mà thấy là thật?

Giải thích : Vì đang ở trong mộng.

Nghi : Kẻ mộng thì thấy cảnh mộng. Người ngộ thì không thấy. Thế pháp, nếu không như thế thì phàm thánh đồng thấy.

Giải thích : Như hưởng. Tuy trường kiếp đều nghe nhưng biết và không biết khác nhau.

Vì sao ?, là hỏi rằng, trước nghe 10 pháp tâm định không động, đã thuận với chánh lý. Vì sao còn quán như vậy? Giải thích : Vì muốn thâm nhập lại để được hậu vị bất thối nhẫn.

7. BẤT THỐI TRỤ

Kiên cố không động chuyển : Địa vị này có gì sai biệt so với Chánh tâm trụ nói trên? Giải thích : Chánh tâm trụ nhập lý. Đây, thì sự của lý không còn thối. Vì niệm niệm thuần nhất. Cả hai cùng hiện tiền. Đồng với Thất địa. Vị trước hội sự nhập lý, đầy đủ các hạnh. Vị sau, từ lý hướng về sự, vì thuần thục dần. Cho nên, vị trước chỉ đối với các chỗ như Tam bảo v.v… nghe tán thán mà không hoan hỉ, nghe hủy báng cũng chẳng ưu phiền, chưa thể nghe đến có và không, vì chẳng thù thắng. Đây nghe có, không, lợi, hại … đã chuyển sâu, kiên cố, không động, nên hơn trước.

I. Tự phần hạnh :

Nghe có Phật không Phật … : Ứng vào lý là không, ứng vào sự là có. Vì này là của không nên nghe thì cũng được không, thành không bị cái làm động. Vì không này là không của , nên nghe không thì cũng được , thành chẳng bị cái không làm động. Do được song hành, nên như thế. Cũng có thể ứng vào tam tánh để giải thích có và không.          

Không ra khỏi sinh tử : Vì không thể ra được. Vì không bỏ đại bi. Vả lại, tam thế đồng với như. Nhất tướng không hoại sai biệt, nên phi nhất tuớng.

II. Thắng tiến hạnh : 10 pháp chia thành 5 đối.

. Hai câu Một tức nhiều …, là một và nhiều tương tức

. Hai câu Tùy vị biết nghĩa …, là giáo và nghĩa tương y. Vị là giáo.

. Hai câu Biết hữu là phi hữu …, là có và không vô ngại.

1/ Sở chấp lý không là phi hữu, chính là tình có, nên là hữu.

2/ Có cái lý không này nên phi hữu là hữu.

3/ Ứng vào lý pháp thì phi tình hữu, hữu.

4/ Y tha thì dường như có, nên phi hữu. Có cái có đó nên cho đó là hữu.

5/ Y tha thì vô sinh, là phi hữu. Không hoại thì dường như có, nên là hữu.

6/ Có cái vô sinh này nên phi hữu là hữu.

7/ Chân như ly tướng, nên phi hữu. Có cái chân đó nên là hữu.

8/ ‘Không’ chân như là phi hữu, thì ‘bất không’ chân như là hữu.

9/ Tánh vô tánh là phi hữu, có cái đó nên là hữu.

10/ Tùy nhiễm ẩn nên phi hữu. Tánh vốn tịnh nên là hữu.

Hữu là phi hữu, thì đảo 10 nghĩa trước lại, theo đó mà hiểu.    

. Hai câu biết tướng là phi tướng, là tướng và phi tướng vô ngại.

. Hai câu biết tánh là phi tánh, là tánh và phi tánh vô ngại.

Hai đối đó cũng đầy đủ 10 nghĩa, thuận nghịch đồng như ‘Có và không vô ngại’.

Cũng giải thích 3 đối sau, ứng vào tam tánh và tam vô tánh.

Phương tiện đầy đủ, vì muốn khiến song hạnh vô ngại thiện xảo viên mãn, nên nói như thế.

8. ĐỒNG CHÂN TRỤ

Tâm được an lập, vì từ lý hướng vào sự mà chẳng mất lý.

I. Tự phần hạnh :

Ba câu Thân hành thanh tịnh, khẩu hành …, là nói ba nghiệp không nhiễm là đồng chân thể. Vì không mất chân lý nên sự thành thanh tịnh. Đây là hạnh tự lợi. Các câu còn lại là hạnh lợi tha.

Tùy ý thọ sinh : Vì tam nghiệp thanh tịnh, nên thọ sinh tự tại.

Bốn câu biết tâm chúng sinh …, là biết tín tâm v.v… Từ tâm khởi dục lạc, tập dục thành tánh, y tánh tạo nghiệp. Đều như Thập trù lâm xứ ở Cửu địa đã nói, cũng như nói ở phẩm Phát Tâm Công Đức.

Biết sự thành hoại …, là biết khí thế giới hai mươi kiếp thành v.v… Cũng biết tập nên thành, tán nên hoại v.v…

Thần thông tự tại …, là tổng kết thắng dụng của ba nghiệp.

II. Thắng tiến hạnh :

6 câu đầu là ngoại khí tự tại. 4 câu sau là tự thân tự tại. Cũng có thể giải thích : 7 câu đầu là học rộng biết ba nghiệp quảng đại. 3 câu sau nói ba nghiệp tự tại.

Trong phần đầu, trước nói về ý nghiệp:

Biết tất cả cõi Phật, là tổng, là biết khí.

Chấn động tất cả cõi Phật, là biết năng dụng của mình.

Nắm giữ tất cả cõi Phật, là tuy động nhưng do nguyện lực trì giữ khiến không hoại, cũng do trì giữ khiến thường dụng.      

Quán tất cả cõi Phật, là quán cõi đó tức chân v.v… Cũng là quán nhiễm tịnh sai biệt, chỗ muốn đi đến.

Đến tất cả cõi Phật, là nói về thân nghiệp, là quán chỗ mình phải đi và đến đó.

Đến khắp tất cả thế giới, là không phải chỉ thứ lớp đi đến mà có thể đồng thời biến khắp mà đến. Cõi Phật thì nhất định có Phật. Còn thế giới thì có cả Phật và không Phật.  

Khéo vấn nạn vô lượng diệu pháp, là nói về ngữ nghiệp. Nếu đến được chỗ có Phật thì có thể hỏi Phật diệu pháp. Nếu đến thế giới không Phật thì hay khéo đáp các vấn nạn. Trong Biệt bản, đồng với cách giải thích sau.

Thần thông biến hóa vô lượng thân, là nói về thân nghiệp tự tại. Không phải chỉ một thân đến nhiều thế giới, mà có thể biến hóa làm nhiều thân thành pháp giới thân nghiệp.

Khéo hiểu vô lượng các âm thanh, là nói về ngữ nghiệp.  

Trong một niệm cúng dường, là nói về ý nghiệp. Cả ý và ngữ nghiệp trên đều thành pháp giới tự tại thắng dụng. Có thể tự biết.

Vì sao? Vì muốn trong tất cả pháp xuất xảo …, là đối với các pháp được thắng dụng thiện xảo tự tại, viên mãn, thành tựu.      

9. PHÁP VƯƠNG TỬ TRỤ

Đây đồng với Thiện tuệ địa.

I. Tự phần hạnh :

Khéo hiểu nẻo chúng sinh, là hiểu lục thú. Chính là Sinh hạnh trù lâm.

Khéo hiểu các phiền não, là Sử hạnh trù lâm.

Khéo hiểu các tập khí, là Tập khí hạnh trù lâm.

Ba phần trên là sở hóa.

Khéo hiểu phương tiện trí, là phương tiện trí (năng hóa).

Khéo hiểu phân biệt vô lượng pháp, là trí thành tựu hiểu pháp dược.

Khéo hiểu các uy nghi, là biết hóa nghi, thị hiện uy nghi của pháp sư.

Khéo hiểu phân biệt các thế giới, là hiểu hóa xứ, là trụ xứ của chúng sinh được giáo hóa.  

Khéo hiểu quá khứ, hiện tại, vị lai, là biết hóa thời. Vì biết lúc thuần thục hay chưa thuần thục của căn cơ mình giáo hóa, nên biết tam tế.  

Khéo hiểu thuyết thế đế, là biết bờ mé chân thật bất động kiến lập các pháp.  

Khéo hiểu thuyết Đệ nhất nghĩa đế, là không hoại giả danh mà chỉ bày chân tướng các pháp.

II. Thắng tiến hạnh :        

Đã là con của pháp vương nên cần học biết trụ xứ v.v… của pháp vương.

Trụ xứ, có tám :

1/ Ứng vào pháp thân vô trụ xứ.

2/ Ứng vào trí trụ chân lý, tức trụ mà vô sở trụ.

3/ Ứng vào báo thân trụ tịnh độ v.v…

4/ Ứng vào hạnh đức trụ tứ Phạm, tam không, cùng với điện từ bi v.v…

5/ Ứng vào hóa thân trụ nước Ma-kiệt v.v...

6/ Ứng vào Thập Phật trụ quốc độ hải.

7/ Trụ vào Hoa tạng giới v.v…

8/ Trong thì trụ pháp giới vô chướng ngại.  

Khéo biết sở hành uy nghi của pháp vương, ngoài thì khéo biết hóa hiện bốn uy nghi, là tùy chúng sinh cần hành thì liền hành v.v…    

Khéo biết an lập pháp vương xứ, là do cơ cảm và bi nguyện mà thân độ mới hiện, nên nói an lập. Biệt bản gọi là ‘hưng lập’.  

Khéo biết khéo nhập pháp vương xứ, là khéo chứng chân lý và khéo ứng cơ.

Khéo biết phân biệt pháp vương xứ, là y nơi chứng mà khởi thuyết và ngay nơi các căn cơ mà phân biệt.  

Khéo biết pháp vương cam lộ quán đỉnh, là biết Phật dùng nước trí tưới lên đỉnh các Bồ-tát đắc vị.

Khéo biết thọ trì pháp của pháp vương, là khéo biết chánh pháp của Phật phải trì ra sao mà nhận thọ trì.  

Khéo biết pháp vô úy của pháp vương, là biết Thập vô úy của Phật, đáp các vấn nạn không sợ.  

Khéo biết pháp vô trước của pháp vương, là biết Phật xử thế chẳng nhiễm, không chấp trước, biện tài v.v…

Khéo biết tán thán pháp của pháp vương, là biết tán thán quỉ tắc của Phật. Cũng biết thật đức của Phật đáng tán thán.

Vì sao? Vì muốn được trí không chướng ngại, là được 40 trí vô ngại ở Cửu địa.    

10. QUÁN ĐỈNH TRỤ

I. Tự phần hạnh

Có hai. Trước là 10 nguyện đã thành tựu trí. Sau là 10 câu tán thán thắng đức.

A. 10 nguyện đã thành tựu trí :

Năm câu đầu nói về trí thế giới vô ngại.

Chấn động vô lượng thế giới, là tùy tâm hồi chuyển.

Chiếu sáng vô lượng thế giới, là giác chiếu sáng rực.

Trụ trì vô lượng thế giới, là nhờ nguyện v.v… nhậm trì.

Du khắp vô lượng thế giới, là tự tại vào khắp tất cả.

Nghiêm tịnh vô lượng thế giới, là chỗ nào đến đều nghiêm tịnh.

Ba câu kế là trí biết tâm hạnh của chúng sinh.

Biết tâm hạnh của vô lượng chúng sinh, là biết tâm chúng sinh.

Biết tùy tâm sở hành của chúng sinh, là biết cảnh giới của tâm sở hành.

Biết các căn của vô lượng chúng sinh, là biết căn hải.

Hai câu sau là trí thọ pháp.

Phương tiện độ vô lượng chúng sinh, là ứng căn ban pháp.

Điều phục vô lượng chúng sinh, là giúp diệt hoặc, thành tựu công đức, nên nói điều phục.

Hai câu ‘Trí thọ pháp’ này cũng có thể giải thích như sau : Câu đầu là tiêu ý. Câu sau là giải thích sự thành tựu. Nghĩa là ‘Độ thế nào?’, là dùng tam học điều phục.

B. 10 câu tán thán đức :

4 câu đầu nói về thân nghiệp không thể biết, chính là nghĩa của ‘Nghiệp tự tại’.

Thân nghiệp không thể biết, là thân sắc vi diệu.

Thân nghiệp thần túc, là y thân khởi thắng nghiệp.

Thần túc, là biến hiện kỳ dị.

Tự tại, là kỳ đặc vô ngại.

6 câu sau, nói về tâm trí không thể biết, chính là nghĩa của ‘Trí tự tại’.

Ba câu Quá khứ trí, vị lai…, là Trí tận cùng tam tế. Chính là ‘Diệu trí tam đạt’ biết khắp tất cả thời.

Tịnh chư Phật độ trí, là trí nghiêm tịnh Phật độ. Chính là ‘Trí khí thế gian tự tại’ biết khắp tất cả chỗ.

Tâm cảnh giới, là ‘Trí chúng sinh thế gian tự tại’. Vì nhiễm tịnh nghiệp tập khởi tâm là chúng sinh.

Trí cảnh giới, là ‘Trí chánh giác thế gian tự tại’.

Cũng có thể giải thích : Tâm là định. Trí là tuệ.

Hoặc giải thích : Tâm cảnh, là tục đế. Vì là tập khởi. Chính là bản trí của Cửu địa nói trên. Trí cảnh, là chân đế. Vì chiếu lý. Là kết qui về chân. Do chân tục này song chiếu vô ngại huyền giám, nên đều không thể biết.

Sau là phân biệt để định địa vị. Đâu có thể đồng vị Bồ-tát và Phật cũng chẳng biết ư? Nay sẽ giải thích theo văn kinh.

II. Thắng tiến hạnh

Học Nhất thiết trí và Nhất thiết chủng trí của Phật thì đương vị mãn đầy, rưới đỉnh làm Phật. Vì nhiếp các vị đều đầy đủ. Như trong phẩm Nhập Pháp Giới sau, đỉnh của Tì kheo Hải Tràng là chỗ Phật thuyết pháp.

Tam thế trí, theo bài tụng sau là học tất cả trí của ba đời chư Phật.

Nhất thiết Phật pháp trí, là trí học giáo pháp của Phật.

Pháp giới vô chướng ngại trí, là trí lý pháp.

Pháp giới vô lượng vô biên trí, là trí lý sự đa môn vô ngại.

Sung mãn nhất thiết thế giới trí, là trí đại dụng trùm khắp.

Phổ chiếu nhất thiết thế giới trí, là trí đối duyên giác chiếu.

Năng trì nhất thiết thế giới trí, là trí y trì thế giới.

Phân biệt nhất thiết chúng sinh trí, là trí ứng với dưới thì cùng tận chúng sinh giới.

Nhất thiết chủng trí, là trí ứng với trên thì thấu triệt Phật quả.

Tri Phật vô lượng vô biên trí, là trí quả đức nhiều môn.

Trong đó, ‘rưới đỉnh’ có nghĩa là ‘thọ chức’.              

1.b Quán giải là biệt tướng : Vì các Trụ đều có tướng giải ngộ.

6. Chứng thành phần : Có hai. Trước, là hiển thật. Sau, là chứng thành. Hai phần này mỗi phần đều có hai. Trước, là tại thế giới này. Sau, là kết thông mười phương.

1. Hiển thật : Trong thế giới này có ba :

. Động địa : Nêu ra ba thứ là động nhân, động xứ và động tướng.

. Mưa cúng dường : Là thân nghiệp.

. Xuất âm : Là ngữ nghiệp.

2. Chứng thành : Trong thế giới này có bốn :

1. Bồ tát đến tại đất này, là có nguyên nhân đến, chỗ đến và người đến.

2. Nói lời tán thán.

3. Thuật lời dẫn chứng của mình : Một, nói người đồng. Hai, nói xứ đồng. Ba, nói chủ đồng. Bốn, nói nghĩa đồng. Năm, nói chúng đồng. Sáu, nói giáo đồng.

4. Nói ý đến, chính là kết thành chứng.        

7. Kệ tụng phần : Cứ 4 câu thành một bài kệ thì có 101 bài tụng rưỡi. Phân làm hai : Trước, 92 bài tụng rưỡi tụng pháp Thập trụ. 9 bài kệ sau là kết luận, tán thán và khuyên tu.

A. Tụng về Thập trụ : Có 92 ½ bài kệ phân làm 10 đoạn.

A1. Sơ phát tâm trụ : Có 46 bài kệ. Phân làm ba.

Kệ (1) (2) (3) : Tụng về thể và duyên phát tâm.

Kệ (4) đến (35) : Được 10 lực. Phân làm ba.

Kệ (4) đến (13) : Hạnh của 10 lực.

Kệ (14) (15) : Cầu biết pháp Nhị đế nên phát tâm.

Kệ (16) đến (35) : Cầu được ba nghiệp của Phật mà phát tâm. Trong đó kệ (16) đến kệ (25) tụng về thân nghiệp. Kệ (26) (27) (28) tụng về ngữ nghiệp. Kệ (29) đến (34) tụng về ý nghiệp. Kệ (35) tán thán kết lại. Lại, ba nghiệp quảng đại này là phần sở đắc của trụ này. Đó là ba nghiệp tùy trí hạnh v.v…      

Kệ (36) đến (46) : Nên học 10 pháp. Kệ (36) đến (45) thứ lớp tụng 10 pháp ở phần Thắng tiến hạnh. Kệ (46) là tổng kết.

Giáo bất thối, là giáo nói thuận với chánh lý không có thay đổi. Cũng có thể hiểu : Đây là giáo nói về cái nghĩa nhập vị bất thối. Hoặc, thuận với giáo pháp này thì được vị bất thối. Câu đầu thuộc Trì nghiệp thích. Hai câu sau thuộc Y chủ thích.

A2. Trị địa trụ : Có 6 bài tụng.

Kệ (47) (48) : Tụng phần Tự phần hạnh.

Kệ (49) đến (52) : Tụng phần Thắng tiến hạnh.

A3. Tu hành trụ : Có 5 bài tụng.

Kệ (53) (54) : Tự phần hạnh.

Kệ (55) (56) (57) : Thắng tiến hạnh.

A4. Sinh quí trụ : Có 6 bài kệ.

Kệ (58) (59) (60) : Tự phần hạnh.

Kệ (61) (62) (63) : Thắng tiến hạnh.

A5. Cụ túc phương tiện trụ : Có 4 ½ bài kệ.

Kệ (64) (65) (66) : Tự phần hạnh.

Kệ (67) (67.5) : Thắng tiến hạnh.

A6. Chánh tâm trụ : Có 5 bài tụng.

Kệ (68) (69) (70) (71) : Tự phần hạnh.

Kệ (72) : Thắng tiến hạnh.

A7. Bất thối chuyển trụ : Có 4 bài kệ.

Kệ (73) (74) : Tự phần hạnh.

Kệ (75) (76) : Thắng tiến.

A8. Đồng chân trụ : Có 5 bài kệ.

Kệ (77) (78) (79) : Tự phần hạnh.

Kệ (80) (81) : Thắng tiến hạnh.

A9. Pháp vương tử trụ : Có 3 bài kệ.

Kệ (82) (83): Tự phần hạnh.

Kệ (84) : Thắng tiến hạnh.

A10. Quán đỉnh trụ : Có 8 bài kệ.

Kệ (85) đến (89) : Tự phần hạnh.

Kệ (90) : Hiển bày công đức.

Kệ (91) (92) : Thắng tiến hạnh.

B. Tán thán khuyến tu : Có 9 bài kệ phân làm ba.

Kệ (93) : Tán thán chung Thập trụ.

Kệ (94) đến (100) : Tán thán riêng Sơ trụ.

Kệ (101) : Dùng Sơ trụ hiển công đức gấp bội của những trụ sau.




[1] (89, 2, -4)

[2](91, 1, -3)

[3]Phần kết thuyết có 10 môn, đây chỉ nói 2 môn, 8 môn còn lại sẽ lập riêng.

[4] Hiển mặt duyên khởi của pháp : Dù lời nói hoàn toàn không có phỉ báng chăng nữa thì cũng không thể đến được trong thánh giái thoát. Vì chỗ đó ‘Tâm hành ngôn ngữ đoạn’. Nếu ‘lời không phỉ báng’ đã không đến được niết bàn thì vì sao lời phỉ báng lại ảnh hưởng đến niết bàn? Không có duyên thì không bàn, nhưng khi ‘Phỉ báng’ là đã gieo một cái nhân, để tương lai khi đủ duyên sẽ hướng về niết bàn.